Một số giải pháp dạy học phát triển năng lực cho học sinh lớp 3 theo chương trình 2018
Ngày đăng: 07/08/2025 20:14
Ngày đăng: 07/08/2025 20:14
Tin liên quan
Trong bối cảnh đổi mới toàn diện giáo dục phổ thông, việc chuyển từ dạy học theo định hướng tiếp cận nội dung sang phát triển phẩm chất và năng lực học sinh đã và đang đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với người giáo viên tiểu học. Theo chương trình giáo dục phổ thông 2018, học sinh tiểu học không chỉ tiếp thu kiến thức một cách thụ động mà cần được hình thành và phát triển năng lực thông qua hoạt động học tập tích cực, chủ động, sáng tạo. Năng lực ở đây không chỉ đơn thuần là khả năng vận dụng kiến thức mà còn bao gồm cả tư duy, kỹ năng sống, kỹ năng hợp tác, giao tiếp và giải quyết vấn đề trong thực tiễn. Đây chính là mục tiêu cốt lõi mà nền giáo dục hiện đại đang hướng đến.
Trên thực tế, việc triển khai chương trình mới tại các trường tiểu học đã đạt được nhiều tín hiệu tích cực. Tuy nhiên, việc tổ chức dạy học nhằm phát triển năng lực học sinh vẫn còn nhiều khó khăn, đặc biệt ở những lớp học đông, có sự chênh lệch trình độ giữa các em, hoặc giáo viên chưa thực sự chủ động đổi mới phương pháp giảng dạy. Trong khi đó, học sinh lớp 3 đang ở độ tuổi phát triển mạnh về tư duy trực quan, ham thích hoạt động và có khả năng tiếp cận với công nghệ. Nếu được tổ chức dạy học phù hợp, các em sẽ phát huy được tiềm năng sẵn có, tạo nền tảng vững chắc cho việc học tập ở các lớp trên.
Thực tế tại trường tiểu học nơi tôi công tác cho thấy: nhiều em học sinh chưa hình thành được thói quen tự học, kỹ năng hợp tác còn hạn chế, khả năng giao tiếp và vận dụng kiến thức vào thực tiễn chưa linh hoạt. Một số em tiếp thu kiến thức tốt nhưng lại thiếu tự tin khi trình bày trước tập thể. Bên cạnh đó, nhiều tiết học vẫn còn nặng về truyền thụ kiến thức, chưa chú trọng tổ chức các hoạt động trải nghiệm, khám phá. Điều này dẫn đến tình trạng học sinh học tập thụ động, kém hào hứng, không phát huy được hết năng lực vốn có của mình.
Là một giáo viên chủ nhiệm lớp 3, trực tiếp tham gia giảng dạy các môn học theo chương trình mới, tôi nhận thấy rõ vai trò của việc tổ chức dạy học phù hợp sẽ giúp học sinh phát triển đồng bộ cả về nhận thức, phẩm chất và năng lực. Việc xây dựng các tiết học sinh động, tích cực, gắn với trải nghiệm thực tiễn, có ứng dụng công nghệ thông minh sẽ tạo hứng thú cho học sinh, từ đó nâng cao hiệu quả dạy học. Xuất phát từ nhận thức đó, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Một số giải pháp dạy học phát triển năng lực cho học sinh lớp 3 theo chương trình 2018” để nghiên cứu, tìm hiểu và áp dụng vào thực tế giảng dạy, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trong giai đoạn hiện nay.
Sáng kiến nhằm đề xuất một số giải pháp cụ thể, thiết thực để nâng cao hiệu quả dạy học theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh lớp 3. Thông qua đó, học sinh không chỉ nắm chắc kiến thức mà còn hình thành được các năng lực cần thiết như: tự học, hợp tác, giải quyết vấn đề, sáng tạo, ứng dụng công nghệ và giao tiếp hiệu quả. Sáng kiến cũng hướng đến việc xây dựng môi trường học tập thân thiện, tích cực, tạo điều kiện để học sinh được trải nghiệm, khám phá và phát triển toàn diện.
Sáng kiến tập trung đổi mới cách tổ chức hoạt động học tập trong từng tiết dạy để phát triển năng lực học sinh một cách tự nhiên, nhẹ nhàng và hiệu quả. Trong quá trình thực hiện, sáng kiến có lồng ghép việc ứng dụng công nghệ thông minh, công cụ trực tuyến, trò chơi học tập số hóa, giúp học sinh tiếp cận kiến thức bằng nhiều kênh khác nhau. Việc phát triển năng lực không chỉ được thực hiện qua hoạt động trong lớp mà còn thông qua các hoạt động trải nghiệm, học tập dự án và kết nối thực tiễn. Giáo viên không còn là người truyền đạt mà trở thành người tổ chức, hướng dẫn và hỗ trợ học sinh chiếm lĩnh tri thức.
Sáng kiến tập trung nghiên cứu và áp dụng trong phạm vi lớp 3, với đối tượng là học sinh lớp 3 tại một trường tiểu học theo chương trình giáo dục phổ thông 2018 – bộ sách “Kết nối tri thức với cuộc sống”. Đối tượng triển khai trực tiếp là học sinh lớp tôi chủ nhiệm, đồng thời có thể mở rộng cho các lớp cùng khối hoặc khối 2 và 4 có nội dung học tương đồng.
Để thực hiện sáng kiến kinh nghiệm “Một số giải pháp dạy học phát triển năng lực cho học sinh lớp 3 theo chương trình 2018”, tôi đã vận dụng linh hoạt và đồng bộ nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau nhằm đảm bảo tính khách quan, khoa học và thực tiễn của đề tài. Cụ thể như sau:
Trước hết, tôi sử dụng phương pháp điều tra thực tiễn bằng cách xây dựng phiếu khảo sát dành cho học sinh và phụ huynh nhằm đánh giá mức độ phát triển một số năng lực phổ thông cốt lõi như: năng lực tự học, năng lực hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo. Kết quả khảo sát được tổng hợp và phân tích để làm cơ sở định hướng các giải pháp phù hợp với thực tế lớp học.
Tiếp theo, tôi sử dụng phương pháp quan sát sư phạm trong quá trình dạy học hàng ngày. Qua đó, tôi ghi nhận thái độ học tập, khả năng tham gia hoạt động nhóm, kỹ năng phát biểu, mức độ tự tin và khả năng áp dụng kiến thức của học sinh vào các tình huống cụ thể. Những dữ liệu thu thập từ quan sát được đối chiếu với kết quả học tập để xác định những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển năng lực của học sinh.
Tôi cũng sử dụng phương pháp phân tích – tổng hợp để nghiên cứu các văn bản chỉ đạo, tài liệu chuyên môn như chương trình giáo dục phổ thông 2018, tài liệu hướng dẫn thực hiện chương trình lớp 3, các công trình nghiên cứu, tạp chí giáo dục liên quan đến phát triển năng lực học sinh. Việc phân tích, tổng hợp giúp tôi xác định được cơ sở lý luận vững chắc và chọn lọc các biện pháp phù hợp, có khả năng áp dụng hiệu quả trong thực tiễn giảng dạy.
Bên cạnh đó, tôi áp dụng phương pháp thực nghiệm sư phạm bằng cách tổ chức dạy học theo các giải pháp đề xuất trong lớp tôi chủ nhiệm. Các hoạt động học tập được xây dựng theo hướng phát triển năng lực như: học tập qua trò chơi, làm việc nhóm, học theo dự án, hoạt động trải nghiệm và ứng dụng CNTT. Sau mỗi hoạt động, tôi đánh giá mức độ tiến bộ của học sinh để điều chỉnh, hoàn thiện giải pháp.
Tôi cũng tiến hành phương pháp trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm với đồng nghiệp trong tổ chuyên môn thông qua các buổi sinh hoạt chuyên đề, hội thảo tổ khối. Từ đó, tôi tiếp nhận thêm ý kiến phản biện, góp ý thực tế để điều chỉnh các biện pháp phù hợp hơn với đặc điểm học sinh và điều kiện nhà trường.
Đặc biệt, tôi kết hợp phương pháp ứng dụng công nghệ thông tin trong quá trình dạy học và đánh giá học sinh. Tôi sử dụng các phần mềm dạy học như PowerPoint, Wordwall, Quizziz, Canva, Padlet,... để tổ chức trò chơi tương tác, kiểm tra đánh giá nhanh và theo dõi sự tiến bộ của học sinh. Việc sử dụng công nghệ giúp tôi thu thập dữ liệu học tập một cách nhanh chóng, chính xác và tạo điều kiện cho học sinh học tập theo hướng cá nhân hóa.
Thông qua sự kết hợp của các phương pháp nghiên cứu trên, tôi đã xây dựng được hệ thống giải pháp phù hợp với đối tượng học sinh lớp 3, mang lại hiệu quả thực tiễn trong việc dạy học phát triển năng lực theo chương trình giáo dục phổ thông mới.
Trong chương trình giáo dục phổ thông năm 2018, mục tiêu giáo dục không còn chỉ dừng lại ở việc truyền thụ kiến thức mà chuyển mạnh sang hướng phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh. Theo đó, học sinh tiểu học cần được hình thành và phát triển toàn diện các năng lực cốt lõi như: năng lực tự học, năng lực giao tiếp – hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề – sáng tạo, năng lực sử dụng công nghệ thông tin và năng lực vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Đây là quan điểm xuyên suốt và mang tính đột phá trong tư duy giáo dục hiện đại, góp phần xây dựng thế hệ công dân có tư duy độc lập, chủ động, sáng tạo và thích ứng với xã hội số.
Năng lực được hiểu là sự kết hợp chặt chẽ giữa kiến thức, kỹ năng, thái độ và giá trị cá nhân, được biểu hiện qua khả năng thực hiện thành công một nhiệm vụ, hành động cụ thể trong một hoàn cảnh nhất định. Theo lý thuyết kiến tạo, người học không tiếp nhận tri thức một cách thụ động mà tự kiến tạo tri thức thông qua hoạt động trải nghiệm, khám phá, thực hành và hợp tác. Vì vậy, vai trò của người giáo viên trong chương trình mới không còn là người truyền đạt kiến thức mà là người tổ chức, hướng dẫn và tạo môi trường học tập tích cực để học sinh được phát triển năng lực một cách tự nhiên và bền vững.
Việc phát triển năng lực học sinh cần được tiến hành xuyên suốt trong các môn học và hoạt động giáo dục, thông qua các hình thức tổ chức dạy học đa dạng như học theo dự án, học qua trải nghiệm, học qua trò chơi, học theo nhóm, học cá nhân hóa. Mỗi hoạt động đều là cơ hội để học sinh vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, phát triển tư duy và thể hiện cảm xúc, từ đó phát triển các năng lực một cách toàn diện.
Ở bậc tiểu học, đặc biệt là lớp 3, học sinh đang trong giai đoạn chuyển tiếp từ học tập dựa trên mô phỏng sang học tập thông hiểu và ứng dụng. Các em cần được tham gia vào các hoạt động học tập có tính khám phá, hợp tác và gắn với thực tiễn cuộc sống. Những tiết học khô khan, thiếu tương tác dễ khiến học sinh mất hứng thú và không phát huy được khả năng cá nhân. Ngược lại, nếu được học tập trong môi trường cởi mở, thân thiện, được tổ chức trò chơi học tập, được trải nghiệm thực tiễn hoặc sử dụng công nghệ thông minh, các em sẽ chủ động chiếm lĩnh kiến thức, phát triển được các năng lực một cách tự nhiên, hiệu quả.
Một điểm mới của chương trình giáo dục phổ thông 2018 là khuyến khích ứng dụng công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo và chuyển đổi số trong dạy học. Việc sử dụng các công cụ số như phần mềm trò chơi học tập, video hoạt hình, bảng tương tác điện tử, hệ thống học liệu trực tuyến... không chỉ tạo hứng thú mà còn giúp học sinh tiếp cận tri thức bằng nhiều giác quan, nhiều kênh thông tin. Đây là tiền đề quan trọng để học sinh phát triển năng lực tự học, năng lực công nghệ và khả năng học tập cá nhân hóa.
Ngoài ra, lý luận giáo dục hiện đại cũng nhấn mạnh vai trò của đánh giá quá trình trong phát triển năng lực. Thay vì đánh giá kết quả cuối cùng, giáo viên cần theo dõi tiến trình học tập của học sinh, ghi nhận sự tiến bộ, phản hồi kịp thời và điều chỉnh phương pháp dạy học. Các hình thức đánh giá đa dạng như nhận xét, tự đánh giá, đánh giá đồng đẳng, sử dụng bảng tiêu chí hay rubrics... đều góp phần hình thành tư duy phản biện, tự chủ và trách nhiệm ở học sinh.
Từ những luận điểm trên có thể thấy, việc phát triển năng lực học sinh không chỉ là yêu cầu của chương trình giáo dục mà còn là một xu thế tất yếu trong thời đại mới. Đặc biệt đối với học sinh lớp 3 – lứa tuổi đang hình thành nền tảng về nhận thức, tư duy và cảm xúc – nếu được tổ chức dạy học một cách khoa học, sáng tạo và ứng dụng công nghệ phù hợp, các em sẽ phát triển toàn diện về cả kiến thức, kỹ năng và phẩm chất.
Thực tiễn công tác giảng dạy tại các trường tiểu học hiện nay cho thấy việc triển khai chương trình giáo dục phổ thông 2018 đã tạo ra nhiều thay đổi tích cực trong phương pháp dạy học và cách tiếp cận của giáo viên. Tuy nhiên, việc dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh vẫn còn gặp không ít khó khăn, đặc biệt ở những lớp học đông, điều kiện cơ sở vật chất chưa đồng bộ, trình độ học sinh không đồng đều, hoặc đội ngũ giáo viên chưa mạnh dạn đổi mới phương pháp dạy học.
Tại trường tiểu học nơi tôi công tác, đội ngũ giáo viên đã có ý thức tiếp cận chương trình mới, tích cực tham gia các lớp tập huấn và chủ động đổi mới nội dung giảng dạy. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức dạy học, tôi nhận thấy nhiều giáo viên vẫn lúng túng trong việc thiết kế hoạt động phát triển năng lực cho học sinh. Không ít tiết học vẫn thiên về việc truyền thụ kiến thức, học sinh tiếp thu một chiều, thiếu cơ hội để trải nghiệm, khám phá hoặc hợp tác với bạn bè. Việc đánh giá năng lực cũng chủ yếu dừng ở mức độ cảm tính, chưa có công cụ cụ thể để nhận diện sự tiến bộ thực chất của học sinh qua từng hoạt động.
Đặc biệt với học sinh lớp 3, tôi nhận thấy sự chênh lệch về năng lực thể hiện khá rõ. Một số em có khả năng tự học, làm việc nhóm và giao tiếp tốt, nhưng cũng có không ít học sinh rụt rè, thiếu tự tin, ngại trình bày và chưa biết vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Điều này cho thấy nếu không có những phương pháp tổ chức dạy học phù hợp thì năng lực cá nhân của các em sẽ không được phát huy, ảnh hưởng đến quá trình học tập lâu dài.
Bên cạnh đó, một số yếu tố khác cũng tác động không nhỏ đến hiệu quả phát triển năng lực học sinh. Nhiều phụ huynh vẫn đặt nặng thành tích điểm số hơn là sự tiến bộ từng ngày của con em mình. Họ ít quan tâm đến việc rèn luyện kỹ năng sống, thái độ học tập hay năng lực hợp tác của con. Ngoài ra, do điều kiện kinh tế – xã hội, một bộ phận học sinh chưa có nhiều cơ hội tiếp xúc với các phương tiện học tập hiện đại như máy tính, máy chiếu, phần mềm trực tuyến... khiến khả năng thích ứng với học tập số còn hạn chế.
Tuy nhiên, cũng phải khẳng định rằng học sinh lớp 3 là lứa tuổi có nhiều lợi thế để phát triển năng lực. Các em có trí tưởng tượng phong phú, ham học hỏi, yêu thích hoạt động nhóm, dễ tiếp cận công nghệ và rất hứng thú với các trò chơi, video hoặc bài học có tính tương tác. Nếu giáo viên biết tận dụng đặc điểm tâm lý lứa tuổi, xây dựng được các hoạt động học tập gắn với trải nghiệm thực tiễn, ứng dụng công nghệ một cách linh hoạt và đổi mới cách đánh giá thì việc phát triển năng lực cho học sinh sẽ trở nên khả thi và hiệu quả.
Từ những phân tích trên, tôi nhận thấy việc nghiên cứu và áp dụng một số giải pháp dạy học nhằm phát triển năng lực học sinh lớp 3 không chỉ phù hợp với định hướng của chương trình giáo dục mới, mà còn xuất phát từ nhu cầu thực tiễn cấp thiết trong hoạt động dạy học hằng ngày. Đây chính là động lực để tôi xây dựng và triển khai đề tài này trong thực tế lớp học.
Trước hết, việc triển khai chương trình giáo dục phổ thông 2018 tại trường tôi đã nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao từ Ban giám hiệu và tổ chuyên môn. Giáo viên được tạo điều kiện tham gia các lớp tập huấn, bồi dưỡng thường xuyên nhằm nâng cao năng lực chuyên môn và kỹ năng tổ chức hoạt động dạy học phát triển năng lực. Chính sự quan tâm và hỗ trợ kịp thời của nhà trường là tiền đề quan trọng giúp giáo viên yên tâm đổi mới phương pháp giảng dạy.
Đa số học sinh lớp 3 có tâm lý ổn định, thái độ học tập tích cực, chủ động tham gia các hoạt động nhóm và trải nghiệm. Các em yêu thích các tiết học có yếu tố tương tác, trò chơi học tập và công nghệ hỗ trợ. Đây là điều kiện thuận lợi để tổ chức các hoạt động phát triển năng lực theo đúng định hướng chương trình mới. Bên cạnh đó, học sinh có tinh thần đoàn kết, thân thiện và thường xuyên giúp đỡ lẫn nhau trong quá trình học tập, tạo nên môi trường học tập tích cực và hỗ trợ lẫn nhau.
Ngoài ra, trong lớp học, một số thiết bị phục vụ cho việc dạy học như máy chiếu, loa, tivi và mạng internet đã được trang bị cơ bản. Điều này tạo điều kiện thuận lợi để tôi ứng dụng công nghệ vào các tiết dạy, đặc biệt là thiết kế trò chơi học tập, bài giảng số hoặc khai thác học liệu trực tuyến giúp học sinh tiếp cận kiến thức một cách sinh động, hấp dẫn hơn.
Một yếu tố tích cực khác là sự phối hợp giữa giáo viên và phụ huynh ngày càng chặt chẽ. Nhiều phụ huynh đã có nhận thức đúng đắn về việc phát triển năng lực học sinh, quan tâm đến thái độ, kỹ năng sống và sự tiến bộ của con cái hơn là điểm số đơn thuần. Điều này góp phần tạo nên sự đồng thuận trong giáo dục giữa nhà trường và gia đình.
Bên cạnh những thuận lợi nêu trên, việc triển khai dạy học phát triển năng lực học sinh lớp 3 vẫn gặp một số khó khăn nhất định. Trước hết, không phải tất cả giáo viên đều mạnh dạn thay đổi cách tổ chức lớp học. Một số còn e ngại hoặc chưa thật sự hiểu sâu về bản chất của dạy học phát triển năng lực nên việc đổi mới còn mang tính hình thức, thiếu chiều sâu. Việc xây dựng hoạt động học tập phù hợp với từng loại năng lực đôi khi còn lúng túng, nhất là khi tổ chức các hoạt động tích hợp, liên môn hoặc đánh giá năng lực một cách cụ thể, rõ ràng.
Khó khăn tiếp theo đến từ sự chênh lệch trình độ giữa các học sinh trong cùng một lớp. Có những em tiếp thu nhanh, sáng tạo, hứng thú học tập, nhưng cũng có học sinh còn rụt rè, chậm tiếp thu, chưa có kỹ năng tự học hoặc hợp tác. Việc thiết kế các hoạt động học tập đáp ứng nhiều đối tượng khác nhau đòi hỏi giáo viên phải đầu tư nhiều thời gian và công sức hơn bình thường.
Bên cạnh đó, cơ sở vật chất và hạ tầng công nghệ của nhà trường tuy đã được cải thiện nhưng vẫn chưa đồng bộ. Một số lớp học chưa có đủ thiết bị hỗ trợ dạy học hiện đại, đường truyền internet không ổn định khiến việc tổ chức các tiết học ứng dụng CNTT, trò chơi học tập số hoặc hoạt động trực tuyến gặp nhiều hạn chế. Ngoài ra, một số học sinh chưa có điều kiện tiếp cận các thiết bị học tập cá nhân như máy tính bảng, điện thoại thông minh hoặc mạng tại nhà, gây khó khăn trong quá trình ôn tập, rèn luyện sau giờ học.
Cuối cùng, thời lượng tiết học theo chương trình chính khóa còn hạn chế nên đôi khi giáo viên chưa có đủ thời gian để tổ chức các hoạt động trải nghiệm, dự án hoặc đánh giá năng lực một cách toàn diện. Điều này ảnh hưởng đến việc theo dõi sự tiến bộ của học sinh theo đúng mục tiêu phát triển năng lực mà chương trình đặt ra.
Từ những thuận lợi và khó khăn trên, tôi nhận thấy cần thiết phải xây dựng một hệ thống giải pháp cụ thể, có tính ứng dụng cao, vừa phù hợp với điều kiện thực tế của lớp học, vừa đáp ứng định hướng phát triển năng lực học sinh lớp 3 trong giai đoạn hiện nay.
Để có cơ sở xây dựng các giải pháp phù hợp với thực tế lớp học, tôi đã tiến hành khảo sát thực trạng phát triển năng lực của học sinh lớp 3 tại lớp tôi chủ nhiệm vào đầu học kỳ I năm học 2024–2025. Việc khảo sát được thực hiện thông qua các phương pháp: quan sát trực tiếp trong quá trình học tập, trao đổi với học sinh và phụ huynh, kiểm tra đánh giá ban đầu theo bộ tiêu chí năng lực của chương trình giáo dục phổ thông 2018. Tôi tập trung vào ba năng lực cốt lõi: năng lực tự học, năng lực giao tiếp – hợp tác, và năng lực giải quyết vấn đề – sáng tạo.
Tổng số học sinh được khảo sát là 34 em. Kết quả thu được như sau:
Năng lực khảo sát |
Mức Tốt |
Mức Đạt |
Mức Cần cố gắng |
Tự học và tự chủ |
10 HS (29,4%) |
18 HS (52,9%) |
6 HS (17,7%) |
Giao tiếp – hợp tác |
12 HS (35,3%) |
17 HS (50,0%) |
5 HS (14,7%) |
Giải quyết vấn đề – sáng tạo |
9 HS (26,5%) |
20 HS (58,8%) |
5 HS (14,7%) |
Từ bảng số liệu trên, có thể thấy rằng phần lớn học sinh đạt mức “Đạt” ở cả ba năng lực, tuy nhiên tỷ lệ học sinh đạt mức “Tốt” chưa cao, đặc biệt là ở năng lực giải quyết vấn đề – sáng tạo và năng lực tự học. Điều này phản ánh thực tế rằng học sinh còn phụ thuộc khá nhiều vào sự hướng dẫn của giáo viên, chưa thật sự chủ động trong việc chiếm lĩnh tri thức hoặc giải quyết các tình huống học tập. Một bộ phận nhỏ học sinh vẫn còn thụ động, thiếu tự tin khi làm việc nhóm hoặc trình bày ý kiến cá nhân.
Thông qua quan sát lớp học, tôi cũng nhận thấy các hoạt động phát triển năng lực còn chưa được triển khai đồng bộ. Một số tiết học còn nặng về lý thuyết, ít tổ chức trò chơi học tập hoặc hoạt động trải nghiệm, dẫn đến tâm lý học tập chưa thật sự hứng thú. Một số học sinh học tốt lý thuyết nhưng thiếu kỹ năng vận dụng, nhất là trong các hoạt động giải quyết tình huống gắn với thực tiễn hoặc hoạt động nhóm có sự phân công vai trò cụ thể.
Bên cạnh đó, khi trao đổi với phụ huynh, tôi nhận thấy có nhiều phụ huynh chưa hiểu rõ về mục tiêu phát triển năng lực trong chương trình mới. Một số vẫn quan tâm chủ yếu đến điểm số, chưa thực sự chú trọng rèn luyện kỹ năng học tập, hợp tác và tư duy độc lập cho con em mình. Điều này ảnh hưởng đến hiệu quả phối hợp giữa nhà trường và gia đình trong quá trình giáo dục toàn diện cho học sinh.
Kết quả khảo sát trên là căn cứ để tôi xác định rõ những điểm còn hạn chế và nhu cầu cần cải thiện trong quá trình tổ chức dạy học. Trên cơ sở đó, tôi đã xây dựng hệ thống các giải pháp mang tính thực tiễn, phù hợp với đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh lớp 3, có tính đổi mới và có thể ứng dụng linh hoạt trong nhiều môn học khác nhau, hướng đến mục tiêu phát triển năng lực toàn diện cho học sinh.
Trong chương trình giáo dục phổ thông 2018, học sinh tiểu học được định hướng là trung tâm của quá trình dạy học. Điều này đòi hỏi giáo viên phải tạo ra môi trường học tập tích cực, trong đó học sinh được chủ động, hợp tác, trải nghiệm và khám phá. Việc xây dựng lớp học tích cực không chỉ là yếu tố hình thức mà chính là nền tảng để học sinh phát triển các năng lực cốt lõi như tư duy độc lập, kỹ năng làm việc nhóm, khả năng giải quyết vấn đề và tinh thần sáng tạo. Lớp học tích cực là nơi mỗi học sinh được tôn trọng, được khuyến khích thể hiện bản thân, được học hỏi lẫn nhau và phát triển toàn diện.
Ngay từ đầu năm học, tôi đã cùng học sinh xây dựng quy tắc lớp học dựa trên sự đồng thuận, trong đó nhấn mạnh tinh thần hợp tác, chủ động và tôn trọng lẫn nhau. Mỗi tuần, lớp có một buổi sinh hoạt “Học cùng cảm xúc”, nơi học sinh chia sẻ về cảm xúc của mình trong học tập, được lắng nghe và góp ý một cách tích cực. Tôi phân công trách nhiệm cho từng nhóm học sinh quản lý một phần việc nhỏ như: tổ trực nhật, nhóm thuyết trình, nhóm công nghệ (phụ trách trình chiếu, âm thanh), nhóm hậu cần (soạn học liệu trò chơi)… Từ đó các em hình thành ý thức chủ động và kỹ năng làm việc nhóm một cách tự nhiên.
Trong từng tiết học, tôi lồng ghép các hoạt động mang tính trải nghiệm như: mô phỏng tình huống thực tế, trò chơi nhập vai, trình bày ý tưởng theo sơ đồ tư duy, tạo sản phẩm học tập… Ví dụ trong môn Tự nhiên và Xã hội, khi dạy bài “Phòng tránh ngộ độc thực phẩm”, tôi tổ chức cho học sinh đóng vai tiểu thương, người tiêu dùng và cơ quan chức năng để xử lý một vụ ngộ độc giả định tại chợ quê. Các em được giao vai, thảo luận nhóm, chuẩn bị tình huống và trình bày trước lớp. Thông qua hoạt động này, học sinh không chỉ nắm chắc kiến thức mà còn phát triển năng lực giao tiếp, hợp tác, giải quyết vấn đề và kỹ năng thuyết trình.
Ngoài ra, tôi còn tổ chức “Góc trải nghiệm sáng tạo” trong lớp học – nơi trưng bày sản phẩm học tập của học sinh như mô hình, tranh vẽ, bản đồ tư duy, video tự quay… Mỗi sản phẩm được các bạn bình chọn và đánh giá theo tiêu chí đã thống nhất. Đây là cách giúp học sinh phát triển năng lực thẩm mỹ, sáng tạo và tinh thần học tập tự giác.
Qua quá trình thực hiện, tôi nhận thấy rõ sự thay đổi tích cực trong thái độ và năng lực học tập của học sinh. Các em trở nên hứng thú với mỗi tiết học, chủ động tham gia các hoạt động nhóm, mạnh dạn chia sẻ ý kiến và biết phối hợp nhịp nhàng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Những học sinh nhút nhát ban đầu cũng dần tự tin hơn khi được giao vai trò quản lý hoặc trình bày trước lớp. Không khí lớp học trở nên sôi nổi, gắn kết và đầy cảm hứng.
Kết quả khảo sát giữa học kỳ I cho thấy: số học sinh đạt mức “Tốt” về năng lực hợp tác và giải quyết vấn đề tăng khoảng 25% so với đầu năm; học sinh thể hiện sự tiến bộ rõ rệt trong kỹ năng trình bày, tư duy logic và làm việc nhóm. Phụ huynh cũng ghi nhận rằng con em họ có động lực học tập tốt hơn, tích cực chia sẻ về những gì đã trải qua ở lớp học.
Giải pháp này đã trở thành nền tảng để tôi phát triển các biện pháp tiếp theo, góp phần xây dựng lớp học thực sự lấy học sinh làm trung tâm, phát triển năng lực toàn diện theo đúng định hướng của chương trình giáo dục mới.
Trong thời đại chuyển đổi số, công nghệ ngày càng đóng vai trò quan trọng trong giáo dục. Đối với học sinh tiểu học, đặc biệt là lớp 3 – độ tuổi đã có khả năng sử dụng thiết bị công nghệ cơ bản – việc ứng dụng công nghệ số vào dạy học không chỉ giúp tăng hứng thú mà còn góp phần quan trọng trong việc hình thành và phát triển các năng lực tự học, năng lực công nghệ, giải quyết vấn đề và tư duy sáng tạo. Trò chơi học tập số hóa là một trong những hình thức hữu hiệu để giúp học sinh tiếp cận kiến thức một cách tự nhiên, hấp dẫn, đồng thời rèn luyện tư duy phản xạ, kỹ năng ra quyết định, hợp tác và giao tiếp. Khi công nghệ được ứng dụng phù hợp, học sinh sẽ học với tinh thần chủ động, thoải mái và dễ tiếp thu.
Để triển khai hiệu quả giải pháp này, tôi tiến hành xây dựng các hoạt động học tập có tích hợp trò chơi học tập số hóa, sử dụng các nền tảng trực tuyến như: Wordwall, Quizizz, Blooket, Liveworksheets, ClassPoint, Canva và Padlet. Trong từng tiết học, tôi chọn thời điểm thích hợp (khởi động, luyện tập, củng cố, kiểm tra) để thiết kế trò chơi phù hợp với nội dung bài học, đảm bảo vừa vui nhộn, vừa giúp học sinh vận dụng được kiến thức.
Ví dụ, trong môn Toán – bài “Nhân số có hai chữ số với số có một chữ số (không nhớ)”, tôi thiết kế một trò chơi trên Quizizz với tên gọi “Ai là cao thủ tính nhẩm?”, trong đó mỗi câu hỏi là một phép tính có ba phương án. Học sinh tham gia bằng điện thoại hoặc máy tính bảng, thi đấu trực tiếp trên màn hình lớn. Trong quá trình chơi, hệ thống tự động chấm điểm, xếp hạng và giáo viên phân tích các lựa chọn sai để hướng dẫn lại học sinh. Trò chơi này giúp học sinh rèn kỹ năng tính toán, phát triển khả năng phản xạ nhanh, tự kiểm tra và điều chỉnh sai sót của bản thân.
Với môn Tiếng Việt, khi dạy bài luyện từ về từ chỉ hoạt động và trạng thái, tôi sử dụng Wordwall tạo trò chơi “Chiếc nón kỳ diệu – đoán nghĩa từ”, học sinh quay nón để chọn câu hỏi, giải thích nghĩa từ hoặc đặt câu đúng theo yêu cầu. Cách chơi này khiến học sinh vừa hồi hộp, vừa hứng thú, đồng thời được rèn khả năng tư duy ngôn ngữ và sáng tạo trong sử dụng từ.
Đặc biệt, tôi tổ chức phong trào “Một trò chơi – Một bạn giỏi” mỗi tuần, giao cho học sinh tự thiết kế trò chơi đơn giản về nội dung vừa học (trên giấy, hoặc trên Wordwall/Canva nếu có điều kiện) để chia sẻ với lớp. Hoạt động này giúp học sinh phát triển năng lực tự học, tư duy hệ thống và biết chia sẻ kiến thức với bạn bè. Ngoài giờ học, tôi khuyến khích phụ huynh cùng con luyện tập thêm tại nhà với trò chơi học tập trên đường link lớp học trực tuyến, giúp việc học tập trở nên linh hoạt và mở rộng.
Sau một thời gian triển khai giải pháp này, tôi nhận thấy rõ sự thay đổi trong thái độ học tập của học sinh. Các em hào hứng tham gia tiết học, không còn e ngại khi gặp bài tập khó, biết chủ động tìm hiểu kiến thức thông qua trò chơi, và đặc biệt là rất tích cực chia sẻ, hợp tác với bạn khi làm bài nhóm. Tỷ lệ học sinh tự tin giải quyết tình huống trong lớp tăng lên rõ rệt. Một số em từng học yếu, hay bị động trong lớp nay đã mạnh dạn phát biểu và tham gia sôi nổi các hoạt động học tập.
Kết quả kiểm tra định kỳ giữa học kỳ II cho thấy số học sinh đạt mức “Tốt” ở năng lực tự học tăng từ 29,4% lên 50%; năng lực giải quyết vấn đề tăng từ 26,5% lên 47%; năng lực sử dụng công nghệ trong học tập tăng đáng kể – gần 80% học sinh biết dùng các công cụ đơn giản như Quizizz, Wordwall để ôn bài.
Ngoài ra, hoạt động này còn góp phần gắn kết giáo viên – học sinh – phụ huynh. Nhiều phụ huynh đánh giá cao việc sử dụng trò chơi học tập trực tuyến vì giúp các em học mà chơi, chơi mà vẫn học, có thể ôn luyện bất cứ lúc nào, ở đâu. Giải pháp này không chỉ phát triển năng lực cho học sinh mà còn khơi dậy niềm yêu thích học tập một cách bền vững.
Học tập theo dự án (Project-based learning) là một phương pháp dạy học hiện đại, trong đó học sinh được giao nhiệm vụ thực hiện một sản phẩm học tập cụ thể thông qua hoạt động nhóm, gắn với kiến thức bài học và thực tiễn cuộc sống. Đây là hình thức tổ chức dạy học không chỉ giúp học sinh vận dụng kiến thức vào tình huống thực tế mà còn hình thành các năng lực thiết yếu như hợp tác, sáng tạo, giải quyết vấn đề, quản lý thời gian, trình bày và phản biện. Đối với học sinh lớp 3 – độ tuổi đang phát triển mạnh về tư duy hình tượng và ngôn ngữ, các dự án học tập nhỏ, phù hợp trình độ sẽ giúp các em bước đầu hình thành kỹ năng học tập chủ động và trách nhiệm với nhóm, từ đó phát triển toàn diện cả nhận thức và phẩm chất.
Tôi thường tổ chức các dự án học tập nhỏ gọn, kéo dài từ 2 đến 5 tiết học, gắn với chủ đề môn học cụ thể và tích hợp giữa nhiều môn. Mỗi dự án đều có yêu cầu rõ ràng về sản phẩm, tiêu chí đánh giá, thời gian hoàn thành, cách phân công nhiệm vụ nhóm và vai trò của từng thành viên. Dự án được thiết kế phù hợp với lứa tuổi, đảm bảo tính vừa sức nhưng vẫn kích thích tư duy và sáng tạo.
Ví dụ trong môn Tiếng Việt – chủ điểm “Bảo vệ môi trường”, tôi tổ chức dự án “Lá thư gửi tương lai”, trong đó học sinh chia nhóm viết một bức thư kêu gọi bảo vệ môi trường gửi cho thế hệ tương lai. Các em phải tìm hiểu thực trạng môi trường xung quanh, thu thập hình ảnh (qua tranh vẽ hoặc ảnh thật do phụ huynh hỗ trợ), thảo luận nội dung thư và trình bày sản phẩm theo mẫu do cô hướng dẫn. Kết quả là các bức thư không chỉ thể hiện năng lực ngôn ngữ, mà còn giúp học sinh rèn luyện kỹ năng trình bày, phân công công việc, làm việc nhóm và ý thức về trách nhiệm công dân.
Một ví dụ khác là trong môn Tự nhiên và Xã hội – chủ đề “Gia đình em”, tôi triển khai dự án “Cuốn sách nhỏ về tổ ấm”, mỗi học sinh tạo một tập sách mini gồm hình ảnh, sơ đồ cây gia đình, lời giới thiệu về người thân, và những việc em thường làm để giúp đỡ gia đình. Sau đó, các nhóm ghép sách thành “thư viện lớp” để cùng đọc, nhận xét và bình chọn. Hoạt động này tạo động lực học tập rất lớn, giúp học sinh thể hiện được cảm xúc, khả năng viết, giao tiếp và hợp tác.
Trong mỗi dự án, tôi đóng vai trò là người hướng dẫn, hỗ trợ nhóm lên kế hoạch, định hướng tiến trình làm việc, giải đáp những vướng mắc nhưng không làm thay. Tôi cũng áp dụng phương pháp đánh giá theo tiêu chí (rubric) và đánh giá đồng đẳng – khuyến khích các nhóm phản biện, nhận xét lẫn nhau sau khi hoàn thành sản phẩm. Nhờ đó, học sinh hiểu rõ điểm mạnh – điểm yếu của bản thân và bạn bè, nâng cao khả năng tư duy phản biện và kỹ năng trình bày.
Việc tổ chức học tập theo dự án nhỏ không chỉ tạo ra những giờ học sinh động, hấp dẫn mà còn mang lại sự chuyển biến rõ rệt trong quá trình hình thành và phát triển năng lực cho học sinh. Các em không còn thụ động ngồi nghe giảng mà chủ động đề xuất ý tưởng, chia sẻ nhiệm vụ và hợp tác hiệu quả với bạn bè. Trong các tiết học có hoạt động nhóm, học sinh thể hiện tinh thần trách nhiệm cao hơn, biết lắng nghe ý kiến người khác và đưa ra quan điểm của mình một cách tự tin.
Tỷ lệ học sinh đạt mức “Tốt” về năng lực hợp tác tăng từ 35,3% lên 61,8% sau một học kỳ triển khai giải pháp. Nhiều em từng rụt rè, ít nói nay đã mạnh dạn thuyết trình trước lớp. Việc đánh giá đồng đẳng và chia sẻ sản phẩm giúp học sinh có cơ hội nhìn lại bản thân, rèn luyện sự khiêm tốn và học cách phản biện tích cực.
Quan trọng hơn, học sinh cảm nhận được ý nghĩa của việc học gắn với cuộc sống. Các sản phẩm của dự án được trưng bày ở “góc sáng tạo” trong lớp học, được phụ huynh khen ngợi và giáo viên đánh giá cao. Chính sự công nhận ấy tạo nên động lực sâu sắc, giúp học sinh phát triển không chỉ về học lực mà còn cả nhân cách, ý thức trách nhiệm và khả năng sống tích cực trong cộng đồng.
Đánh giá không chỉ là công cụ đo lường kết quả học tập mà còn là phương tiện quan trọng để định hướng sự tiến bộ và phát triển năng lực cho học sinh. Theo định hướng của chương trình giáo dục phổ thông 2018, đánh giá cần được thực hiện thường xuyên, đa dạng và mang tính hỗ trợ người học. Đặc biệt ở bậc tiểu học, học sinh cần được đánh giá trong suốt quá trình học tập thay vì chỉ chờ đến các bài kiểm tra cuối kỳ. Việc giáo viên kịp thời ghi nhận tiến bộ, khích lệ học sinh bằng lời nhận xét tích cực, hình ảnh khen thưởng hay hình thức động viên phù hợp sẽ giúp học sinh có động lực tự học, phát huy tiềm năng và hình thành niềm tin vào bản thân. Đồng thời, đây cũng là phương thức để phát triển đồng thời các năng lực: tự chủ, hợp tác, tư duy và sáng tạo.
Để đánh giá đúng hướng phát triển năng lực, tôi xây dựng bảng tiêu chí đánh giá theo từng môn học, từng năng lực cụ thể (ví dụ: năng lực giao tiếp – hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực ngôn ngữ, năng lực tính toán...). Các tiêu chí được trình bày rõ ràng bằng ngôn ngữ gần gũi, dễ hiểu, minh họa bằng hình ảnh và màu sắc giúp học sinh lớp 3 dễ tiếp cận. Mỗi tiết học đều có mục tiêu cụ thể và tiêu chí đánh giá đi kèm. Tôi hướng dẫn học sinh tự đánh giá và đánh giá bạn bè sau mỗi hoạt động bằng cách đánh dấu biểu tượng (mặt cười, thang điểm tự chọn, sticker tích cực…), từ đó hình thành tư duy phản biện và ý thức trách nhiệm.
Bên cạnh đánh giá cá nhân, tôi tổ chức đánh giá nhóm theo tiến độ công việc, khả năng phối hợp và kết quả sản phẩm. Các nhóm được khuyến khích nhận xét lẫn nhau thông qua “Phiếu ghi nhận hợp tác”, trong đó các thành viên nêu cảm nhận về vai trò, sự hỗ trợ của từng bạn trong nhóm. Những phiếu này được tôi lưu lại làm căn cứ điều chỉnh nhóm hoặc phân công nhiệm vụ phù hợp hơn trong các hoạt động sau.
Đặc biệt, tôi triển khai hoạt động “Góc vinh danh học sinh” trong lớp, nơi trưng bày các hình ảnh, sản phẩm học tập tiêu biểu, bảng “học sinh tiến bộ mỗi tuần” và “bạn học truyền cảm hứng”. Việc tuyên dương không dựa trên điểm số mà dựa trên nỗ lực, sự chuyển biến trong thái độ học tập, khả năng hợp tác, sáng tạo hoặc vượt khó. Các hình thức tuyên dương cũng được cá nhân hóa như: lời khen viết tay, huy hiệu vui, phiếu “tặng sao đổi quà”, video hoạt hình khen thưởng cá nhân (tạo bằng ứng dụng Canva hoặc ClipAI)… giúp học sinh cảm thấy được công nhận, tự tin và hạnh phúc khi đến lớp.
Với những học sinh còn rụt rè, tôi sử dụng “phiếu tự cam kết” – nơi các em tự ghi mục tiêu tuần học, và “sổ theo dõi tiến bộ cá nhân” do giáo viên hỗ trợ. Mỗi bước tiến dù nhỏ cũng đều được ghi nhận, giúp các em không còn so sánh với bạn mà tập trung cải thiện chính mình. Với sự hỗ trợ của phụ huynh qua sổ liên lạc điện tử, tôi thường xuyên phản hồi sự tiến bộ của học sinh một cách nhẹ nhàng, khích lệ, tạo nên mối liên kết tích cực giữa gia đình và nhà trường.
Việc áp dụng đánh giá quá trình kết hợp với tuyên dương kịp thời đã mang lại hiệu quả rõ rệt trong việc phát triển năng lực toàn diện của học sinh lớp tôi. Các em hiểu được mục tiêu học tập, biết tự theo dõi sự tiến bộ của mình, mạnh dạn nói lên khó khăn và đề xuất cách khắc phục. Những học sinh yếu cũng không còn cảm giác tự ti mà trở nên tích cực, vì các em biết rằng sự cố gắng của mình luôn được ghi nhận.
Sau một học kỳ, số học sinh đạt mức “Tốt” ở năng lực tự chủ – tự học tăng từ 29,4% lên 55,9%; năng lực hợp tác tăng từ 35,3% lên 64,7%; đặc biệt, có 100% học sinh tham gia đầy đủ các hoạt động đánh giá quá trình và đều có biểu hiện tiến bộ so với thời điểm đầu năm. Phụ huynh bày tỏ sự hài lòng vì con mình ngày càng tự tin, có mục tiêu học tập rõ ràng, biết nỗ lực và không ngại chia sẻ cảm xúc với người lớn.
Giải pháp này không chỉ giúp giáo viên có cái nhìn toàn diện hơn về học sinh mà còn góp phần nuôi dưỡng động lực học tập bền vững, từ đó hình thành nhân cách tích cực và tinh thần học tập chủ động ở lứa tuổi tiểu học.
Sau thời gian triển khai đồng bộ các giải pháp trong quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy rõ hiệu quả thiết thực đối với việc hình thành và phát triển năng lực cho học sinh lớp 3. Trước hết, học sinh thể hiện sự tiến bộ vượt bậc trong thái độ học tập: các em đến lớp với tâm thế chủ động, tích cực và hào hứng hơn. Việc ứng dụng công nghệ, tổ chức trò chơi học tập và các hoạt động nhóm trải nghiệm đã khơi dậy được sự hứng thú, tinh thần hợp tác và sáng tạo trong mỗi học sinh. Các giờ học trở nên sinh động, học sinh tích cực tương tác, chia sẻ, trình bày ý tưởng và hợp tác hiệu quả trong mọi nhiệm vụ được giao.
Từ kết quả khảo sát, thống kê và theo dõi quá trình rèn luyện, các năng lực cốt lõi được định hướng trong chương trình giáo dục phổ thông 2018 đều có sự chuyển biến tích cực. Tỷ lệ học sinh đạt mức "Tốt" về năng lực hợp tác, giải quyết vấn đề, tự học và sáng tạo đều tăng rõ rệt. Cụ thể, năng lực giao tiếp và hợp tác tăng từ 35,3% lên 61,8%; năng lực tự học từ 29,4% lên 55,9%; năng lực tư duy và giải quyết vấn đề tăng từ 26,5% lên 47%. Đặc biệt, học sinh đã biết cách đánh giá bản thân, đặt mục tiêu học tập và điều chỉnh hành vi học tập phù hợp. Tinh thần trách nhiệm và ý thức cộng đồng của các em cũng được nâng cao qua các dự án học tập, hoạt động nhóm và phong trào thi đua.
Bên cạnh đó, sự phối hợp giữa giáo viên và phụ huynh cũng trở nên hiệu quả hơn. Thông qua các hình thức phản hồi, trao đổi online và các sản phẩm học tập của học sinh, phụ huynh đã nắm bắt được tiến trình học tập của con, từ đó đồng hành tích cực cùng nhà trường. Những hình ảnh tuyên dương, phiếu phản hồi và góc sáng tạo lớp học trở thành nguồn động lực tinh thần cho cả học sinh và cha mẹ. Giáo viên có thêm dữ liệu để điều chỉnh phương pháp dạy học, phát hiện sớm các khó khăn và hỗ trợ kịp thời cho từng đối tượng học sinh.
Như vậy, sáng kiến đã khẳng định hiệu quả trong việc góp phần hiện thực hóa mục tiêu của chương trình giáo dục phổ thông 2018 – lấy học sinh làm trung tâm, phát triển năng lực toàn diện thông qua những hình thức dạy học tích cực, hiện đại và gần gũi với học sinh tiểu học.
Từ quá trình triển khai sáng kiến và thu được những kết quả thực tiễn, tôi rút ra một số bài học kinh nghiệm quan trọng như sau:
Thứ nhất, việc phát triển năng lực cho học sinh tiểu học cần được thực hiện một cách liên tục, bài bản và đồng bộ. Giáo viên cần chủ động thiết kế các hoạt động học tập có tính mở, tạo không gian cho học sinh trải nghiệm, tương tác, khám phá và thể hiện bản thân. Mỗi tiết học cần mang đến cơ hội để học sinh được rèn luyện ít nhất một năng lực cụ thể, được đánh giá đúng và khích lệ kịp thời.
Thứ hai, người giáo viên giữ vai trò “người tổ chức – hỗ trợ” hơn là người truyền đạt đơn thuần. Cần linh hoạt trong điều hành, biết lắng nghe học sinh, sẵn sàng thay đổi cách tiếp cận để phù hợp với năng lực và sở thích của từng đối tượng. Giáo viên cũng cần tích cực ứng dụng công nghệ, sử dụng các phần mềm học tập, trò chơi số, video tương tác để làm giàu nội dung dạy học và tăng sự hấp dẫn.
Thứ ba, việc phối hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh là yếu tố quyết định để duy trì và mở rộng hiệu quả giáo dục năng lực. Phụ huynh cần được thông tin thường xuyên về mục tiêu, cách thức tổ chức hoạt động học tập và tiêu chí đánh giá để đồng hành cùng con một cách đúng hướng. Khi phụ huynh trở thành đối tác tích cực, việc rèn luyện năng lực cho học sinh sẽ không còn giới hạn trong phạm vi lớp học.
Cuối cùng, để triển khai hiệu quả các giải pháp phát triển năng lực cho học sinh, giáo viên cần tự học, tự đổi mới và tích lũy kinh nghiệm thực tiễn. Mỗi sáng kiến, dù nhỏ, cũng góp phần lan tỏa tinh thần tích cực, đổi mới trong toàn trường và là nền tảng cho sự thành công của giáo dục hiện đại.
Việc dạy học phát triển năng lực cho học sinh lớp 3 theo chương trình giáo dục phổ thông 2018 không chỉ là yêu cầu tất yếu của đổi mới giáo dục mà còn là con đường thiết thực giúp học sinh hình thành những phẩm chất và kỹ năng cần thiết cho cuộc sống hiện tại và tương lai. Qua quá trình nghiên cứu, thử nghiệm và triển khai các giải pháp trong thực tiễn giảng dạy, tôi nhận thấy rằng: khi giáo viên linh hoạt trong tổ chức dạy học, tích cực ứng dụng công nghệ, tổ chức các hoạt động học tập đa dạng, giàu tính trải nghiệm, đồng thời đánh giá học sinh một cách nhân văn và kịp thời thì sẽ khơi dậy được nội lực, sự chủ động và hứng thú trong mỗi em học sinh.
Bốn giải pháp mà tôi đã áp dụng, gồm: tổ chức tiết học theo tiến trình phát triển năng lực; ứng dụng công nghệ số và trò chơi học tập trực tuyến; tổ chức các dự án học tập nhỏ theo nhóm; kết hợp đánh giá quá trình và tuyên dương kịp thời – đều hướng tới mục tiêu giúp học sinh phát triển toàn diện về năng lực và phẩm chất. Qua đó, các em không chỉ nắm chắc kiến thức mà còn biết hợp tác, tư duy độc lập, giải quyết vấn đề, có trách nhiệm với bản thân và cộng đồng.
Thành công bước đầu của sáng kiến là minh chứng cho tinh thần đổi mới, sáng tạo, dám thay đổi vì sự phát triển của học sinh. Tôi tin rằng nếu tiếp tục duy trì và nhân rộng những cách làm này trong phạm vi nhà trường và cộng đồng giáo viên, chất lượng giáo dục tiểu học sẽ có nhiều chuyển biến tích cực, đáp ứng được kỳ vọng đổi mới toàn diện của ngành giáo dục.
Đề nghị Ban giám hiệu quan tâm, tạo điều kiện cho giáo viên được bồi dưỡng chuyên môn, tập huấn về phương pháp dạy học phát triển năng lực, kỹ năng thiết kế hoạt động học tập, sử dụng công nghệ số trong giảng dạy. Nhà trường cần khuyến khích giáo viên mạnh dạn đổi mới, chia sẻ sáng kiến hay, tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên đề theo hướng thiết thực và gần với thực tiễn lớp học.
Ngoài ra, cần có sự đầu tư đồng bộ về cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, đường truyền internet, tài khoản học tập số… để giáo viên và học sinh có thể thuận lợi ứng dụng công nghệ vào quá trình dạy và học. Việc đánh giá giáo viên cũng nên gắn với quá trình đổi mới phương pháp và hiệu quả thực tế trong phát triển năng lực cho học sinh.
Đề nghị phụ huynh đồng hành tích cực cùng con trong quá trình học tập. Cần thấu hiểu mục tiêu giáo dục phát triển năng lực, không quá đặt nặng điểm số mà quan tâm hơn đến sự tiến bộ của con qua từng ngày. Phụ huynh nên tham gia các hoạt động trải nghiệm, chia sẻ và phản hồi với giáo viên để xây dựng mối quan hệ hợp tác chặt chẽ, cùng nhau hỗ trợ học sinh học tập hiệu quả.
Bên cạnh đó, phụ huynh cũng nên hướng dẫn con sử dụng thiết bị công nghệ một cách hợp lý, có định hướng và có trách nhiệm, nhằm hỗ trợ tốt cho việc học tập kết hợp công nghệ trong thời đại số.
Đây là Sáng kiến mới 100%, do thầy Lê Hồng Minh thiết kế nhằm hỗ trợ miễn phí cho giáo viên phục vụ công việc dạy học và được đăng tải độc quyền trên website bienphap.vn và được công ty DMCA bảo mật quyền sở hữu trí tuệ. Thầy nghiêm cấm tất cả mọi người không được phép chia sẻ lại hoặc buôn bán trên tất cả các trang mạng xã hội dưới bất cứ hình thức nào!
Ứng dụng công nghệ thông minh giúp học sinh lớp 3 giải toán có lời văn bằng hai phép tính
31/07/2025 14:50
Ứng dụng công nghệ thông minh giúp học sinh lớp 3 giải toán có lời văn bằng hai phép tính được thiết kế mới 100% và được đăng tải độc quyền trên website bienphap.vn nhằm hỗ trợ giáo viên có tư liệu phục vụ công tác dạy học.
Đổi mới phương pháp dạy học môn toán lớp 3 theo hướng phát triển năng lực
29/06/2025 15:24
Đổi mới phương pháp dạy học môn toán lớp 3 theo hướng phát triển năng lực
29/06/2025 15:42
Vận dụng một số phương pháp dạy học tích cực để dạy học môn Đạo dức lớp 3 theo hướng phát triển năng lực học sinh
29/06/2025 15:49
Tăng cường Tiếng việt cho học sinh lớp 3 về vốn từ qua một số trò chơi học tập góp phần phát triển năng lực ngôn ngữ
29/06/2025 16:37
Vận dụng chuyển đổi số trong dạy học nhằm khơi dậy tình yêu học toán cho các em lớp 3 năm học 2024 - 2025
Nâng cao kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 3 trong tiết đọc của môn Tiếng Việt
28/06/2025 17:57
Nâng cao kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 3 trong tiết đọc của môn Tiếng Việt
Một số giải pháp tổ chức học thông qua chơi nhăm tạo hứng thú cho học sinh qua môn Toán ở lớp 3
28/06/2025 17:59
Một số giải pháp tổ chức học thông qua chơi nhăm tạo hứng thú cho học sinh qua môn Toán ở lớp 3