Ứng dụng kĩ thuật sơ đồ tư duy trong dạy học lớp 4 ở Trường Tiểu học
Ngày đăng: 10/07/2025 15:22
Ngày đăng: 10/07/2025 15:22
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài góp phần nâng cao chất lượng dạy học
Trong thời đại ngày nay, nguồn tài liệu học tập, nghiên cứu như: sách, tạp chí, báo, các kỷ yếu rất phong phú. Thêm vào đó là sự phát triển mạnh mẽ của ngành công nghệ thông tin, chúng ta đang tiếp xúc với nguồn kiến thức mênh mông của thế giới. Bên cạnh đó, chúng ta thường xuyên phải ghi nhớ, tổng hợp hay phân tích một vấn đề bằng nhiều phương pháp như kẻ bảng, gạch đầu dòng các ý chính, vẽ sơ đồ tổng hợp, nhưng nó chưa bao giờ được hệ thống và được nghiên cứu kỹ lưỡng, mà chỉ được dùng tản mạn trong học sinh một cách định hướng có sẵn theo giáo viên. Cách học truyền thống đã khiến tư duy của nhiều em đi vào lối mòn, không kích thích được sự phát triển trí não của học sinh, điều đó làm cho một số em tuy rất chăm học nhưng tiếp thu và ghi nhớ được kiến thức rất ít, không biết vận dụng kiến thức vào các phần học sau. Học chỉ biết ghi mà không biết hệ thống kiến thức sau đó. Học sinh còn yếu về kỹ năng tư duy và tư duy khoa học, ghi nhớ chưa sâu nên dẫn đến học vẹt, học thuộc máy móc, dẫn đến chán nản, áp lực.
Kinh nghiệm dạy lớp 4, 5 nhiều năm cho tôi thấy: Khi học bài mới, nhiều học sinh tiếp thu thụ động, máy móc, chỉ biết học bài nào biết bài đấy, các môn học chưa có sự liên kết kiến thức với nhau vì thế không phát triển được tư duy logic và tư duy hệ thống. Ngoài ra, việc chuẩn bị bài mới cũng là khâu quan trọng để học sinh tiếp thu kiến thức mới nhưng các em vẫn chưa có ý thức chuẩn bị.
Có nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, song phải kể đến nguyên nhân chính là do phương thức học tập của học sinh chưa tích cực và phương pháp giảng dạy của giáo viên chưa thực sự thu hút sự hứng thú học tập nhằm phát huy tính tự giác và chủ động, sáng tạo trong học tập của học sinh. Cùng với việc đổi mới mục tiêu và nội dung dạy học, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học theo quan điểm lấy người học là trung tâm được đặt ra một cách bức thiết. Bản chất của dạy học lấy người học là trung tâm là phát huy cao độ tính tự giác, tích cực, độc lập, sáng tạo của người học. Theo quan điểm trên, trong công tác giáo dục, ngoài vấn đề truyền đạt kiến thức cho học sinh, chúng ta cần hướng học sinh đến một phương pháp học tập tích cực và tự chủ để lĩnh hội tri thức, và giáo viên cũng cần có phương pháp nghiên cứu để luôn cập nhật kịp thời tri thức của thế giới. Với “biển thông tin” như thế, để tiếp cận tốt cần có phương pháp giúp hệ thống lại những kiến thức đó. Việc xây dựng được một “hình ảnh” thể hiện mối liên hệ giữa các kiến thức, sẽ mang lại những lợi ích đáng quan tâm về các mặt: ghi nhớ, phát triển nhận thức, tư duy, óc tưởng tượng và khả năng sáng tạo, một hình thức dạy học mới đã được áp dụng rộng rãi đó là sử dụng sơ đồ tư duy, được mệnh danh là “công cụ vạn năng cho bộ não” là phương pháp ghi chú đầy sáng tạo, hiện nay tôi đã đưa vào thực hiện trong giảng dạy và học tập.
Ưu điểm lớn nhất của việc sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học ở Tiểu học là dễ áp dụng, dễ thực hành, phát huy khả năng sáng tạo của học sinh. Tôi chỉ cần bảng và hộp phấn nhiều màu. Học sinh chỉ cần tờ giấy trắng và hộp bút nhiều màu mực. Bất kể môn nào tôi cũng có thể ứng dụng sơ đồ tư duy và yêu cầu học sinh làm việc cá nhân hoặc theo nhóm. Việc thực hiện sơ đồ tư duy sẽ giúp các em rèn kỹ năng và tư duy khoa học, đặc biệt ghi nhớ kiến thức sâu sắc mà không sa vào lối học vẹt, học máy móc, học sinh được vừa học vừa chơi, tâm lý thoải mái, không áp lực, buồn chán nữa. Một hình thức giảm tải mà không giảm yêu cầu.
Nhận thấy rõ những ưu điểm trên cũng như đặc điểm nhận thức, tư duy của học sinh giai đoạn cuối Tiểu học, điều đó thôi thúc tôi nghiên cứu đề tài “Hướng dẫn học sinh lớp 4 lập sơ đồ tư duy và sử dụng sơ đồ tư duy trong một số môn học.”
Một trong những định hướng cơ bản của việc đổi mới giáo dục là chuyển từ nền giáo dục mang tính hàn lâm, xa rời thực tiễn sang một nền giáo dục chú trọng việc hình thành năng lực, phát huy tính chủ động, sáng tạo của người học. Định hướng quan trọng trong đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) nói chung và đổi mới PPDH ở tiểu học nói riêng là phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo, phát triển năng lực hành động, năng lực cộng tác làm việc của người học.
Để đổi mới phương pháp, kĩ thuật giảng dạy có hiệu quả, giáo viên (GV) là yếu tố quyết định hàng đầu trong việc thực hiện công cuộc đổi mới đó. Nhằm hướng HS đến một phương pháp học tập tích cực và tự chủ, GV không những cần giúp HS khám phá các kiến thức mới mà còn phải giúp HS hệ thống được những kiến thức đó. Việc xây dựng được một “hình ảnh” thể hiện mối liên hệ giữa các kiến thức sẽ mang lại những lợi ích đáng quan tâm về các mặt: ghi nhớ, phát triển nhận thức, tư duy, óc tưởng tượng và khả năng sáng tạo, … Một trong những công cụ hết sức hữu hiệu để tạo nên các “hình ảnh liên kết” là sơ đồ tư duy (SĐTD), được mệnh danh là “công cụ vạn năng cho bộ não” là phương pháp ghi chú đầy sáng tạo.
Ưu điểm lớn nhất của việc sử dụng SĐTD trong dạy học ở tiểu học là dễ áp dụng, dễ thực hành, phát huy khả năng sáng tạo của HS. Tôi chỉ cần bảng và hộp phấn nhiều màu. Học sinh chỉ cần tờ giấy trắng và hộp bút nhiều màu mực. Bất kể môn nào tôi cũng có thể ứng dụng SĐTD và yêu cầu HS làm việc cá nhân hoặc theo nhóm. Việc thực hiện SĐTD sẽ giúp các em rèn kỹ năng và tư duy khoa học, đặc biệt ghi nhớ kiến thức sâu sắc mà không sa vào lối học vẹt, học máy móc, học sinh được vừa học vừa chơi, tâm lý thoải mái, không áp lực, buồn chán.
Nhận thấy rõ những ưu điểm trên cũng như đặc điểm nhận thức, tư duy của HS giai đoạn cuối tiểu học và qua một thời gian áp dụng kĩ thuật sơ đồ tư duy vào dạy học đã mang lại chuyển biến rõ rệt, góp phần nâng cao chất lượng dạy học nói chung chất lượng dạy học lớp 4 trường TH ............ nói riêng nên tôi chọn đề tài: “Ứng dụng kĩ thuật sơ đồ tư duy trong dạy học lớp 4 ở Trường Tiểu học ............”.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
*Mục tiêu của đề tài
Sơ đồ tư duy là một công cụ hữu ích trong giảng dạy và học tập ở trường phổ thông nói chung bậc Tiểu học nói riêng vì giúp giáo viên và học sinh trong việc trình bày các ý tưởng một cách rõ ràng, suy nghĩ sáng tạo, học tập thông qua biểu đồ, tóm tắt thông tin của một bài học hay một cuốn sách, bài báo, hệ thống lại kiến thức đã học, tăng cường khả năng ghi nhớ, đưa ra ý tưởng mới,…
Sơ đồ tư duy là con đường dễ nhất để chuyển tải thông tin vào bộ não rồi đưa thông tin ra ngoài bộ não. Đây là phương tiện ghi chép đầy sáng tạo và rất hiệu quả theo đúng ý nghĩa “sắp xếp ý nghĩ dưới dạng sơ đồ”. Sơ đồ tư duy là một hình thức ghi chép có thể sử dụng màu sắc, hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng; tóm tắt những ý chính của một nội dung; hệ thống hoá kiến thức nhờ sự kết nối giữa các nhánh. Các ý tưởng được liên kết với nhau khiến Sơ đồ tư duy có thể bao quát được các ý tưởng trên phạm vi sâu rộng. Vì vậy, Sơ đồ tư duy huy động tối đa tiềm năng của não bộ, giúp cho việc ghi nhớ được lâu bền, giúp học sinh học sinh học tập tích cực, giúp con người khai thác được tiềm năng vô tận của bộ não.
Dạy học hợp tác trong nhóm giúp cho kiến thức trở nên sâu sắc, bền vững, dễ nhớ và nhớ nhanh hơn do được giao lưu học hỏi giữa các thành viên trong nhóm. Học sinh (HS) học được cách trình bày ý kiến của mình, biết lắng nghe có phê phán ý kiến của bạn, có sự tự tin, hứng thú trong học tập; vốn hiểu biết và kinh nghiệm xã hội thêm phong phú. Các kĩ năng xã hội như: kĩ năng giao tiếp, kĩ năng hợp tác, kĩ năng thương lượng, kĩ năng lắng nghe tích cực, kĩ năng ra quyết định, kĩ năng giải quyết vấn đề của HS được phát triển.
Tuy vậy, phương pháp này cũng bộc lộ những hạn chế như: một số HS không tham gia vào hoạt động chung của nhóm; ý kiến của các nhóm có thể quá phân tán hoặc mâu thuẫn gay gắt với nhau; thời gian có thể bị kéo dài; lớp học ồn ào, ảnh hưởng đến các lớp khác.
* Nhiệm vụ của của đề tài
- Sơ đồ tư duy giúp học sinh chuyển từ cách học truyền thống sang cách học tích cực thông qua thảo luận nhóm và kĩ thuật Sơ đồ tư duy (SĐTD); tận dụng tối đa thời gian của tiết học vào các hoạt động tích cực của HS, giảm việc ghi chép trên lớp, do đó giúp học sinh (HS) bớt căng thẳng, mệt mỏi. Sự kết hợp này cũng sẽ khắc phục được một số hạn chế của phương pháp thảo luận nhóm.
- Sơ đồ tư duy làm cho mỗi bài học không còn khô khan, cứng nhắc mà trở nên sinh động, hấp dẫn từ chính các ý tưởng thiết kế SĐTD của HS và các ví dụ minh họa từ thực tiễn mà các em đưa vào.
Biện pháp ứng dụng kĩ thuật SĐTD trong dạy học cho học sinh lớp 4 góp phần hình thành và rèn luyện kĩ năng tư duy, ghi nhớ tốt cho HS; năng lực giao tiếp và hợp tác; năng lực giải quyết vấn đề … Từ đó phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS nhằm nâng cao chất lượng dạy và học.
Biểu đồ mẫu của sơ đồ tư duy:
Trong biện pháp này, tôi làm rõ những vấn đề sau:
- Tìm hiểu thực trạng sử dụng kĩ thuật sơ đồ tư duy trong dạy và học cho học sinh lớp 4 Trường Tiểu học ............, Krông Bông, Đắk Lắk.
- Đưa ra biện pháp ứng dụng kĩ thuật sơ đồ tư duy trong dạy học cho học sinh lớp 4 để đáp ứng yêu cầu đổi mới PPDH theo quan điểm lấy người học là trung tâm, dạy học theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực học sinh, đồng thời góp phần nâng cao chất lượng dạy và học.
Đối với phương pháp này, tôi chỉ là người khơi gợi, đánh giá và chốt lại nội dung, còn các em học sinh mới thực sự là những người chủ động, sáng tạo trong việc thể hiện kiến thức mà mình nắm bắt được. Chính vì thế, phương pháp sơ đồ tư duy còn góp phần rèn luyện kỹ năng sống cho các em, cụ thể như: Kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ, sự tự tin, khả năng lắng nghe, thương lượng, hợp tác, tư duy sáng tạo, quản lý thời gian…”. Không chỉ áp dụng trên lớp, các em còn thực hành phương pháp ghi nhớ bằng sơ đồ tư duy trong thời gian học tập ở nhà.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là biện pháp ứng dụng kĩ thuật sơ đồ tư duy trong dạy học lớp 4 ở Trường Tiểu học .............
Lấy việc giúp cho học sinh lớp 4 trang bị thêm hiểu biết, kiến thức, kỹ năng lập và sử dụng sơ đồ tư duy vào các bài học trong các môn học khác nhau từ đó hình thành các hành vi, kỹ năng, thái độ chuẩn mực làm đối tượng nghiên cứu.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Khi nghiên cứu đề tài này, tôi đã dùng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
+ Phương pháp trò chuyện với đồng nghiệp và học sinh để tìm hiểu thêm những kinh nghiệm của đồng nghiệp và thu thập thêm số liệu cho vấn đề nghiên cứu.
+ Phương pháp đọc tài liệu và nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến đề tài.
+ Phương pháp quan sát.
+ Phương pháp khảo sát, đối chiếu.
+ Phương pháp điều tra thực tiễn.
+ Phương pháp tìm tòi, sáng tạo.
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
II. NỘI DUNG
Theo Tâm lý học, tư duy của học sinh tiểu học mang tính đột biến, chuyển từ tư duy tiền thao tác sang tư duy thao tác. Giai đoạn đầu bậc Tiểu học, tư duy của các em chủ yếu diễn ra trong trường hành động: tức những hành động trên các đồ vật và hành động tri giác (phối hợp hoạt động của các giác quan). Trong giai đoạn tiếp theo, trẻ đã chuyển được các hành động phân tích, khái quát, so sánh... từ bên ngoài thành các thao tác trí óc bên trong, mặc dù tiến hành các thao tác này vẫn phải dựa vào các hành động với đối tượng thực, chưa thoát ly khỏi chúng. Đó là các thao tác cụ thể. Biểu hiện rõ nhất của bước phát triển này trong tư duy của nhi đồng là các em đã có khả năng đảo ngược các hình ảnh tri giác, khả năng bảo tồn sự vật khi có sự thay đổi các hình ảnh tri giác về chúng. Trên cơ sở đó, Sơ đồ tư duy giúp học sinh phát hiện vấn đề một cách dễ dàng và ghi nhớ một cách có hệ thống. Mỗi nhánh nhỏ sẽ tác động đến “nấc thang” nhận thức gần nhất của các em.
Sau khi nghiên cứu cuốn sách “ Tôi tài giỏi- Bạn cũng thế” của tác giả Adam Khoo cùng với lời giới thiệu của Tony Buzan, tôi đã hiểu được: Sơ đồ tư duy là phương pháp được đưa ra như là một phương tiện mạnh để tận dụng khả năng ghi nhận hình ảnh của bộ não. Đây là cách để ghi nhớ chi tiết, để tổng hợp, hay để phân tích một vấn đề ra thành một dạng của lược đồ phân nhánh. Phương pháp này được phát triển vào cuối thập niên 60 (thế kỉ 20) bởi Tony Buzan, giúp ghi lại bài giảng mà chỉ dùng các từ then chốt và các hình ảnh. Cách ghi chép này nhanh, dễ nhớ và dễ ôn tập hơn.
Ưu điểm: So với các cách thức ghi chép truyền thống, thì phương pháp dùng sơ đồ tư duy có những điểm vượt trội như sau:
- Ý chính sẽ ở trung tâm và được xác định rõ ràng.
- Quan hệ hỗ tương giữa mỗi ý được chỉ ra tường tận. Ý càng quan trọng thì sẽ nằm vị trí càng gần với ý chính.
- Liên hệ giữa các khái niệm then chốt sẽ được tiếp nhận lập tức bằng thị giác.
- Ôn tập và ghi nhớ sẽ hiệu quả và nhanh hơn.
- Thêm thông tin (ý) dễ dàng hơn bằng cách vẽ chèn thêm vào bản đồ.
- Mỗi bản đồ sẽ phân biệt nhau tạo sự dễ dàng cho việc gợi nhớ.
- Các ý mới có thể được đặt vào đúng vị trí trên hình một cách dễ dàng, bất chấp thứ tự của sự trình bày, tạo điều kiện cho việc thay đổi một cách nhanh chóng và linh hoạt cho việc ghi nhớ.
- Có thể tận dụng hỗ trợ của các phần mềm trên máy tính
Phương pháp này khai thác khả năng ghi nhớ và liên hệ các dữ kiện lại với nhau bằng cách sử dụng màu sắc, một cấu trúc cơ bản được phát triển rộng ra từ trung tâm, chúng dùng các đường kẻ, các biểu tượng, từ ngữ và hình ảnh theo một bộ các quy tắc đơn giản, cơ bản, tự nhiên và dễ hiểu. Với một sơ đồ tư duy, một danh sách dài những thông tin đơn điệu có thể biến thành một sơ đồ đầy màu sắc, sinh động, dễ nhớ, được tổ chức chặt chẽ. Nó kết hợp nhịp nhàng với cơ chế hoạt động tự nhiên của não chúng ta. Việc nhớ và gợi lại thông tin sau này sẽ dễ dàng, đáng tin cậy hơn so với khi sử dụng kỹ thuật ghi chép truyền thống. Đặc biệt đây là một sơ đồ mở, không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết chặt chẽ như bản đồ địa lý, có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi học sinh vẽ một kiểu khác nhau, dùng màu sắc, hình ảnh khác nhau các cụm từ diễn đạt khác nhau, cùng một chủ đề nhưng mỗi học sinh lại có một cách “thể hiện “nó dưới dạng sơ đồ tư duy khác nhau, do đó sẽ phát huy tối đa được khả năng sáng tạo của các em.
Vì vậy, trong dạy học: Việc sử dụng sơ đồ tư duy sẽ huy động tối đa tiềm năng của bộ não, giúp học sinh học tập tích cực, hỗ trợ hiệu quả các phương pháp dạy học khác. Vận dụng sơ đồ tư duy trong dạy học, tôi giúp các em có thói quen tự tay ghi chép hay tổng hợp một vấn đề, một kiến thức, một chủ đề đã học- đã đọc, theo cách hiểu của các em. Mỗi bài học, kiến thức trọng tâm được hệ thống dưới dạng sơ đồ tư duy trên một trang giấy, giúp học sinh dễ ôn tập, dễ xem lại kiến thức khi cần. Học sinh thường xuyên tự lập sơ đồ tư duy sẽ phát huy khả năng thẩm mĩ do việc thiết kế nó phải có bố cục rõ ràng về màu sắc, các đường nét, các nhánh sao cho đẹp, sắp xếp các ý tưởng sao cho có khoa học, súc tích…Và đó chính là cách để các em học sinh “Học cách học” mà tôi đã áp dụng ở lớp tôi.
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
Ở lớp 4, môn Tiếng Việt đã bắt đầu hình thành khái niệm ngữ pháp, cung cấp và rèn quy tác ngữ pháp, tập làm văn, Phân môn Lich sử- Địa lý ngoài việc hình thành cho học sinh một số kỹ năng cơ bản còn bắt đầu cung cấp cho học sinh một số kiến thức như nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử, mối quan hệ giữa các nhân vật, sự kiện lịch sử trong quá khứ, hiện tại; sự vật hiện tượng, mối quan hệ địa lí giữa các vùng miền, giữa thiên nhiên và con người. Lượng kiến thức ấy không phải là ít và dễ dàng tiếp nhận, ghi nhớ. Hơn nữa học sinh tiểu học còn thích được vẽ, thích tưởng tượng, vừa học vừa chơi. Chính vì vậy ứng dụng sơ đồ tư duy vào dạy học cho học sinh lớp 4 góp phần giúp học sinh biết cách tiếp nhận thông tin, ghi chú, ôn luyện hiệu quả vẫn không cảm thấy quá tải, vẫn hứng thú với môn học này. Và còn nhiều các môn học khác nữa cũng có thể sử dụng bản đồ tư duy như Toán, Kể chuyện, Khoa học, Luyện từ và câu….
Trước khi thực hiện hướng dẫn cho học sinh cách vẽ bản đồ tư duy thì tôi đã điều tra bằng phiếu điều tra dành cho hơn 142 học sinh khối 4 trường tôi như sau:
Họ và tên : Lớp : 4....… PHIẾU ĐIỀU TRA Ý KIẾN 1. Em có bút màu và giấy vẽ không? a. Có đầy đủ b. Không có 2. Nhìn vào sơ đồ này, em biết được những gì về bạn nhỏ? a. Không biết được gì về bạn. b. Biết được sở thích, gia đình, mục tiêu, trường học của bạn. 3. Em đã bao giờ nghe đến cụm từ “Sơ đồ tư duy” chưa? a. Nghe thường xuyên b. Thỉnh thoảng mới nghe đến. c. Chưa bao giờ nghe đến. 4. Theo em : Sơ đồ tư duy là gì? a. Là một bức tranh dùng cho một bài học. b. Là những sơ đồ dùng trong các môn học. c. Là sơ đồ trong đó biểu thị lại nội dung của bài học bằng các hình vẽ. 5. Em có muốn giáo viên dạy học bằng cách vẽ sơ đồ tư duy không? Vì sao? a. Có b. Không vì:…………………………………………………………………………………………………………………………. ……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………… |
Kết quả:
Câu 1: 100% học sinh có đầy đủ.
Câu 2: 10% chọn a, 70% chọn b. Điều đó có nghĩa đa số các em chỉ cần nhìn vào một sơ đồ tư duy là sẽ nắm bắt được những điều cơ bản nhất của nội dung chính.
Câu 3: khoảng 5% học sinh thỉnh thoảng mới nghe tới cụm từ “Sơ đồ tư duy”, 95% các em trả lời chưa bao giờ nghe đến cụm từ này và không có em nào trả lời nghe cụm từ này thường xuyên.)
Câu 4: Khoảng 70% chọn a, 20% chọn đáp án b và 10% chọn c. Điều đó chứng tỏ, các em cũng đã hình dung được
Câu 5: 20% trả lời là “không” vì thấy cầu kì quá, vì vẽ xấu, vì không nhớ được nhiều kiến thức, vì chưa biết sơ đồ tư duy là gì….80% trả lời “có” vì thấy tò mò biết sơ đò tư duy như thế nào?, nhìn vào sơ đồ rất dễ nhớ nội dung, màu sắc bắt mắt, được vẽ theo sáng tạo của mình….
Qua việc khảo sát học sinh tôi nhận thấy: Hầu hết học sinh có rất ít hiểu biết về sơ đồ tư duy. Đó là một khái niệm còn rất xa lạ với các em. Có một số em rất ngại phải học với phương pháp này. Tuy nhiên, bên cạnh đó, phần lớn học sinh rất thích thú, các em có đầy đủ đồ dùng học tập như màu, giấy vẽ, thích khám phá, thích được phát huy khả năng sáng tạo của mình qua các sơ đồ tư duy sẽ được học.
Về đội ngũ, vẫn còn một số hạn chế như:
- Một vài GV còn chưa mạnh dạn áp dụng phương pháp, kĩ thuật dạy học mới, chưa sử dụng kĩ thuật sơ đồ tư duy, ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy, chưa linh hoạt giữa các đối tượng học sinh khi vào thực tế giảng dạy.
- Một số học sinh còn thụ động trong việc tiếp thu bài học, khả năng làm việc độc lập với SGK, hợp tác nhóm còn chậm, chưa có ý thức tự giác học tập, chủ yếu ghi nhớ kiến thức bằng cách học thuộc nên rất nhanh quên, từ đó ảnh hưởng tới việc ghi nhận, thực hành và vận dụng kiến thức.
- Một số gia đình HS còn khó khăn về kinh tế nên cha mẹ các em chưa có thời gian và điều kiện quan tâm đến việc học của con em mình.
Sau 24 tuần giảng dạy (từ ngày 05/09/2022 đến 15/03/2023) tôi nhận thấy rõ những hạn chế của học sinh trong lớp về sự tiếp thu, ghi nhớ kiến thức: nhiều em có khuynh hướng phát triển trí nhớ máy móc, thiếu sáng tạo và chưa có sự logic, chưa biết liên kết các mạch kiến thức đã học từ bài trước nên khi thực hành, vận dụng thực tế các em còn rất lúng túng, thiếu sự liên kết và chính xác.
Thống kê về kĩ năng tư duy của học sinh lớp 4c
Thời điểm |
Tổng số HS |
Kĩ năng tư duy |
Số lượng |
Tỉ lệ |
Đầu tháng 9/2022 |
34 em |
Sáng tạo |
2 |
5,88% |
Đánh giá |
3 |
8,82% |
||
Phân tích |
4 |
11,76% |
||
Ứng dụng |
7 |
20,59% |
||
Hiểu biết |
8 |
23,53% |
||
Ghi nhớ |
10 |
29,41% |
3. Nội dung và hình thức của giải pháp
a. Mục tiêu của giải pháp
Vận dụng SĐTD vào dạy học, GV và HS cùng làm việc tập thể một cách tích cực, sáng tạo, huy động cùng một lúc nhiều kiến thức, kết hợp cách ghi chép kênh chữ với kênh hình; sau mỗi bài học GV và HS đều có thêm niềm vui vì tự mình làm ra “sản phẩm trí tuệ”. Để việc ứng dụng kĩ thuật này vào dạy học đạt hiệu quả, tôi đúc kết được những bước thực hiện chính sau:
- Bước 1: Giới thiệu sơ đồ tư duy với học sinh
- Bước 2: Hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ tư duy
- Bước 3: Hướng dẫn học sinh lập sơ đồ tư duy
- Bước 4: Tổ chức dạy học với sơ đồ tư duy
- Bước 5: Ứng dụng bản đồ tư duy trong giảng dạy một số môn học
Trong quá trình thực hiện thì bước 1 và bước 2 là hai bước nền tảng, làm cơ sở cho bước 3,4 và 5. GV có thể lồng ghép 2 bước này vào một số tiết học trước đó để củng cố bài học cho HS. Khi học sinh đã thành thạo với việc lập SĐTD, trình bày bằng SĐTD thì GV sẽ ứng dụng kĩ thuật sơ đồ tư duy vào dạy học các bài học cụ thể.
b. Nội dung và cách thực hiện biện pháp
1. Giới thiệu sơ đồ tư duy với học sinh
Để hướng dẫn và trang bị kiến thức cho HS về sơ đồ tư duy, trước hết tôi cho học sinh làm quen với sơ đồ tư duy bằng cách giới thiệu cho học sinh một số sơ đồ tư duy cùng với sự dẫn dắt, giải thích của tôi để các em tập đọc hiểu sơ đồ tư duy, sao cho chỉ cần nhìn vào sơ đồ tư duy các em có thể thuyết trình được nội dung một bài học hay một chủ đề, một chương theo mạch lôgic của kiến thức.
Hình ảnh sơ đồ tư duy về từ và cấu tạo từ tiếng Việt
2. Hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ tư duy:
Để hướng dẫn và trang bị kiến thức cho học sinh về cách vẽ sơ đồ tư duy, tôi đã thực hiện một số việc làm sau:
Trước hết tôi cho học sinh làm quen với sơ đồ tư duy bằng cách giới thiệu cho học sinh một số sơ đồ tư duy cùng với sự dẫn dắt, giải thích của tôi để các em tập đọc hiểu sơ đồ tư duy, sao cho chỉ cần nhìn vào sơ đồ tư duy các em có thể thuyết trình được nội dung một bài học hay một chủ đề, một chương theo mạch logic của kiến thức.
Để vẽ sơ đồ tư duy tôi yêu cầu các con cần có: giấy, bút màu, càng nhiều màu càng tốt. Hướng dẫn học sinh phải thực hiện 4 bước sau:
Bước 1: Vẽ chủ đề ở trung tâm:
-Bước đầu tiên trong việc tạo ra một sơ đồ tư duy là vẽ một chủ đề trung tâm ở trên một mảnh giấy.
-Đặt trang giấy nằm ngang trước mặt để bắt đầu vẽ sơ đồ tư duy ở giữa trang giấy.
-Muốn xác định được chủ đề tôi hướng dẫn học sinh dựa vào tên một bài học vì thông thường tên một bài học chứa nội dung trọng tâm của bài.
*Quy tắc vẽ chủ đề:
- Học sinh cần phải vẽ chủ đề ở trung tâm để từ đó phát triển ra các ý khác.
- Học sinh có thể tự do sử dụng các màu sắc mà mình yêu thích để nhấn mạnh, sắp xếp, kết cấu, sáng tạo và có thể thêm một số yếu tố vui nhộn đối với suy nghĩ của học sinh. Điều này sẽ kích thích thị giác và củng cố hình ảnh trong các con. Yêu cầu học sinh phải dùng ít nhất 3 màu cho toàn bộ sơ đồ tư duy và hãy tạo ra một hệ thống mã màu của riêng mình.
- Học sinh không nên đóng khung hoặc che chắn mất hình vẽ chủ đề vì chủ đề cần được làm nổi bật để dễ nhớ.
- Học sinh có thể bổ sung từ ngữ vào hình vẽ chủ đề nếu chủ đề không được rõ ràng.
- Một bí quyết vẽ chủ đề là chủ đề nên được vẽ to nhất, màu sắc bắt mắt nhất, dễ hiểu nhất.
Bước 2: Vẽ thêm các tiêu đề phụ:
Bước tiếp theo, tôi hướng dẫn các em vẽ thêm các tiêu đề phụ vào chủ đề trung tâm:
*Quy tắc vẽ tiêu đề phụ:
- Tiêu đề phụ nên được viết bằng chữ in hoa nằm trên các nhánh dày để làm nổi bật. Các từ khoá càng ngắn gọn xúc tích càng tốt, vì nó yêu cầu não bộ của học sinh phải liên tưởng, gợi nhớ. Hơn là các em ghi ra sẵn nguyên câu khiến não chỉ việc nhàn hạ đọc qua mà không có gắng tư duy ghi nhớ. Những từ khoá quan trọng cần thay đổi màu sắc và kích cỡ để tăng sự tập trung.
- Tiêu đề phụ phải vẽ gắn liền với trung tâm bằng một loạt liên kết đậm toả ra từ tâm của hình ảnh. Đây là những nhánh chính của sơ đồ tư duy, chúng sẽ giúp học sinh liên kết các thông tin lại với nhau. Biết được quan hệ “cha con” của các thông tin.
- Tiêu đề phụ nên vẽ theo hướng chéo góc (chứ không nằm ngang) để nhiều nhánh phụ khác có thể được vẽ toả ra một cách dễ dàng.
- Khi vẽ vạch liên kết, tôi hướng dẫn học sinh nên vẽ đường cong hơn là đường thẳng, vì chúng hấp dẫn hơn với mắt và dễ ghi nhớ hơn đối với não
Bước 3: Trong từng tiêu đề phụ, vẽ thêm các ý chính và các chi tiết hỗ trợ:
Tiếp theo, tôi hướng dẫn học sinh vẽ các nhánh phụ cấp hai, cấp ba, theo quy tắc sau:
*Quy tắc vẽ ý chính và chi tiết hỗ trợ:
- Chỉ nên tận dụng các từ khoá và hình ảnh: Hướng dẫn cho học sinh thêm các hình vẽ vào nhánh sao cho càng phù hợp với từ khoá càng tốt, lúc này não phải của các con thoả sức tư duy và sáng tạo, đảm bảo làm sao khi nhìn lại sơ đồ tư duy chỉ cần nhìn hình là học sinh lập tức nhớ ngay đến từ khoá của nhánh đó.
- Bất cứ khi nào có thể, các con hãy dùng những biểu tượng, cách viết tắt để tiết kiệm không gian vẽ và thời gian. Học sinh đều có cách viết tắt riêng của mình cho những từ thông dụng. Đây là một số cách viết tắt mà tôi hay hướng dẫn học sinh:
+ Sơ đồ tư duy: SĐTD
+ Không có: x có
+ Suy ra : à
+ Tăng lên/ giảm xuống, phát triển/ sa sút:
+ Lớn hơn, nhỏ hơn: >, <
Ngoài ra các em còn có thể kí hiệu theo ý nghĩ của mình.
Tạo các liên kết giữa các nhánh nếu chúng có liên quan đến nhau. Điền số thứ tự vào các nhánh nếu học sinh muốn sắp xếp thứ tự quan trọng, hoặc thứ tự các nhánh phải xem nếu thông tin yêu cầu sự tuần tự.
Tất cả các nhành của một ý nên toả ra từ một điểm.
Tất cả các nhành toả ra từ một điểm (thuộc cùng một ý) nên có cùng một màu.
Các em có thể thay đổi màu sắc khi đi từ một ý chính đến các ý phụ cụ thể hơn.
Bước 4: Hoàn thiện sơ đồ tư duy:
Ở bước này, tôi để cho trí của học sinh được phát huy, các con tích cực chủ động sáng tạo, thêm nhiều hình ảnh giúp các ý quan trọng thêm nổi bật, cũng như giúp kiến thức lưu vào trí nhớ của học sinh tốt hơn. Cách vẽ sơ đồ tư duy ban đầu sẽ có cảm giác phức tạp và mất thời gian vì vừa phải tìm từ khoá, vừa mất thời gian vẽ nhưng sơ đồ tư duy hoàn chỉnh vừa là một bức tranh về những ý nghĩ của học sinh, vừa là một bản tóm tắt nội dung giúp cho đạt được mục tiêu của chủ đề.
3. Hướng dẫn học sinh lập sơ đồ tư duy
Hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ tư duy theo 3 bước sau:
Bước 1: - Viết tên chủ đề hay vẽ một hình ảnh phản ánh chủ đề vào vị trí trung tâm của tờ giấy. Hãy bắt đầu với một cụm từ hay một hình ảnh, hình vẽ đã chọn để ở trung tâm cho to, rõ.
- Muốn xác định được chủ đề tôi hướng dẫn học sinh dựa vào tên một bài học vì thông thường tên một bài học chứa nội dung trọng tâm của bài.
*Quy tắc vẽ chủ đề:
- Học sinh cần phải vẽ chủ đề ở trung tâm để từ đó phát triển ra các ý khác.
- Học sinh có thể tự do sử dụng các màu sắc mà mình yêu thích để nhấn mạnh, sắp xếp, kết cấu, sáng tạo và có thể thêm một số yếu tố vui nhộn đối với suy nghĩ của HS.
- HS có thể bổ sung từ ngữ vào hình vẽ chủ đề nếu chủ đề không được rõ ràng.
- Một bí quyết vẽ chủ đề là chủ đề nên được vẽ to nhất, màu sắc bắt mắt nhất, dễ hiểu nhất.
Ví dụ:
Bước 2: Từ chủ đề trung tâm, vẽ các nhánh chính. Trên mỗi nhánh chính viết một khái niệm phản ánh một nội dung lớn của chủ đề: Chọn những từ khóa và có thể viết bằng chữ hoa. Số lượng các nhánh tùy thuộc vào kiến thức chủ đề cần dạy.
Sử dụng hình ảnh, kí hiệu, mật mã, mũi tên trong SĐTD. Mỗi từ/hình ảnh phải đứng một mình và trên một dòng riêng.
Ví dụ:
Lưu ý: Các nhánh chính cần bố trí đều, cân đối quanh hình ảnh trung tâm. Thông thường hình ảnh trung tâm để chính giữa trang giấy, tờ bìa, bảng … Tuy nhiên, nếu SĐTD chỉ có hai nhánh chính thì nên để hình ảnh trung tâm ở giữa, gần mép bên trái.
Bước 3: Từ mỗi nhánh chính vẽ tiếp các nhánh phụ để viết tiếp những nội dung thuộc các nhánh chính đó. Các chữ trên các nhánh phụ được viết bằng chữ thường (nên viết cùng màu với nhánh).
Sử dụng điểm nhấn và chỉ ra mối liên kết trong SĐTD. Làm cho SĐ rõ ràng bằng cách phân cấp các nhánh, sử dụng số thứ tự hoặc dàn ý để bao quanh các nhánh của SĐ.
SĐTD là một sơ đồ mở, mỗi người có thể vẽ theo một cách khác nhau, dùng hình ảnh khác nhau, màu sắc khác nhau sao cho vừa truyền tải được nội dung kiến thức vừa phù hợp với năng khiếu thẩm mĩ riêng. Khuyến khích HS dùng những biểu tượng, kí hiệu, viết tắt để tiết kiệm không gian vẽ và thời gian. Vì vậy khi thiết kế SĐTD có thể bổ sung, thêm hay bớt nhánh, tô màu, … nếu cần thiết.
Lưu ý: Không nên vẽ quá nhiều hình ảnh cầu kì, màu sắc lòe loẹt vừa làm mất thời gian vừa bị rối mắt và phân tán sự tập trung.
Ví dụ:
Hình ảnh sơ đồ tư duy về hình bình hành
4. Tổ chức dạy học với sơ đồ tư duy
Tùy vào từng tiết học mà GV có cách tổ chức các hoạt động linh hoạt và phù hợp với mục tiêu, nội dung, phương tiện dạy học và đối tượng HS. Để thuận lợi trong giảng dạy tôi chia ra 3 dạng bài: Dạy – học kiến thức mới; Luyện tập, củng cố kiến thức một bài học, một chủ đề; Ôn tập, hệ thống hóa kiến thức một chương, một học kì.
4.1. Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy – học kiến thức mới
Hoạt động 1: Lập SĐTD
Khi dạy một bài học kiến thức mới thì mở đầu bài học, GV có thể ghi từ khóa và vẽ các nhánh chính lên bảng. Sau đó dẫn dắt HS tìm ra kiến thức để vẽ các nhánh phụ liên quan đến chủ đề cần học. Việc GV hướng dẫn HS xây dựng các nhánh phụ của SĐTD chính là quá trình hình thành kiến thức cho các em.
Hoạt động 2: Thảo luận, chỉnh sửa, hoàn thiện SĐTD
Tổ chức cho HS thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện SĐTD, GV sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp HS hoàn chỉnh SĐTD, từ đó dẫn dắt đến kiến thức trọng tâm của bài học.
Hoạt động 3: Củng cố kiến thức bằng một SĐTD
Cho HS lên trình bày, thuyết minh về kiến thức thông qua một SĐTD được thiết kế trong giờ học và cả lớp đã chỉnh sửa, hoàn thiện hoặc một SĐTD do GV đã chuẩn bị sẵn (vẽ ở bảng phụ hoặc ở bìa) để củng cố bài học.
Ví dụ: Lập SĐTD khi dạy học bài “Nước Văn Lang” – Lịch sử 4, tr. 11.
Sau 2 tiết học làm quen thì đây là bài học thứ nhất của HS trong môn Lịch sử để tìm hiểu về đặc điểm mô hình nhà nước đầu tiên của nước ta. Vậy nên, việc hình thành cho HS những khái niệm ban đầu, những ấn tượng đặc biệt nhất về bài học này là điều rất cần thiết.
Cụ thể, giáo viên tổ chức một số hoạt động sau:
- GV viết cụm từ trung tâm “Nước Văn Lang” và vẽ bốn nhánh cấp 1: Mỗi nhánh là một nội dung, đặc điểm về nhà nước Văn Lang mà HS sẽ nghiên cứu trong bài học.
- GV tổ chức cho HS thảo luận nhóm 6 để tìm hiểu nội dung của từng nhánh:
+ Nhóm 1: Nhánh 1 – Quá trình thành lập nhà nước Văn Lang
+ Nhóm 2: Nhánh 2 – Tổ chức nhà nước Văn Lang
+ Nhóm 3: Nhánh 3 – Đời sống người dân Lạc Việt
+ Nhóm 4: Nhánh 4 – Tìm hiểu về các câu chuyện, truyền thuyết từ buổi đầu lập nước đến thời các vua Hùng.
Các nhóm thảo luận theo gợi ý sau:
- Đại diện các nhóm báo cáo, thuyết trình về chủ đề của nhóm mình. HS và GV nhận xét (khi nhận xét, GV nên động viên, khích lệ HS tìm ra ý tưởng mới). Sau đó GV rút ý chính ghi vào nhánh cấp 2.
Sau khi các nhánh cấp 2 được xây dựng đầy đủ thì phần nội dung kiến thức mới của bài cũng được hình thành. HS có thể ghi nhớ kiến thức ngay tại lớp.
Tiếp theo, GV cho HS thực hành – thuyết trình lại nội dung từng nhánh cấp 1 và cả bài. Cuối tiết học, GV tổ chức một số trò chơi để hỏi lại kiến thức đã học thông qua SĐTD đã hình thành.
4.2. Sử dụng sơ đồ tư duy giúp ôn tập, củng cố kiến thức một bài học, một chủ đề
Một tiết học luyện tập hay luyện tập chung thường tổng hợp lại kiến thức đã học từ 2 hoặc 3 tiết trước và rèn luyện cho HS các kĩ năng cần thiết. Sử dụng SĐTD sẽ giúp tóm tắt lại kiến thức dưới những dạng đơn giản giúp HS dễ thuộc hơn. Các dạng cần luyện tập sẽ lần lượt được thể hiện ở các nhánh chính, nội dung nhánh chính – vấn đề cần ôn tập sẽ được triển khai cụ thể ở các nhánh cấp 2, 3, … Vì đây là tiết học củng cố lại kiến thức từ các bài học trước nên khi lập SĐTD giáo viên chỉ gợi ý và để HS tự nêu ra phần kiến thức đã học, làm như vậy các em sẽ hiểu sâu kiến thức và biết chuyển kiến thức từ SGK theo cách trình bày thông thường thành cách hiểu, cách ghi nhớ của riêng mình.
Ví dụ: Lập SĐTD khi dạy bài “Luyện tập chung” – Toán 4, tr. 144.
Đối với bài học này, HS đã có kiến thức về đặc điểm các hình tứ giác: Hình vuông, hình chữ nhật, hình bình hành, hình thoi và nắm được công thức tính chu vi, diện tích các hình đó từ những bài học trước. Vì vậy khi dạy bài này GV sẽ cho cả lớp tạo SĐTD bằng cách: GV viết cụm từ khóa “Các hình tứ giác” lên bảng và tổ chức cho HS hình thành các nhánh chính, nhánh phụ thông qua việc trả lời các câu hỏi:
Tương tự với các hình còn lại, GV sẽ mời HS lên bảng vẽ tiếp các nhánh phụ cho từng nhánh chính. Sau khi HS hoàn thành, GV cho HS cả lớp nhận xét, góp ý, chỉnh sửa để hoàn thiện SĐTD. GV sẽ đưa ra SĐTD mẫu để HS cùng quan sát.
SĐTD về các hình tứ giác đã hệ thống lại toàn bộ kiến thức cho HS trong chủ đề này, vậy GV có thể đặt câu hỏi để HS khái quát lại toàn bộ nội dung hay so sánh để tìm ra điểm chung nhất của các hình: Hình chữ nhật, hình vuông, hình bình hành và hình thoi. Dựa vào SĐTD trên bảng, HS có thể dễ dàng tìm ra những đặc điểm chung nhất và mối quan hệ giữa các hình, giúp các em hiểu sâu, nắm chắc kiến thức về các hình đã học.
Phần kiến thức về lí thuyết đã được củng cố lại sẽ giúp các em giải quyết nhanh hơn các bài tập trong phần luyện tập. GV hướng dẫn để HS có thể tự mình làm các bài tập. Dạng bài tập trắc nghiệm, GV mời các em đọc bài của mình, cả lớp nhận xét và GV tổng kết lại. Dạng bài toán giải, GV cho HS làm vào vở, sau đó thu vở HS để nhận xét, đánh giá và nhận xét chung cả lớp.
Cuối tiết học, GV đưa ra SĐTD đã chuẩn bị làm mẫu và mời HS lên bảng dựa vào sơ đồ nhắc lại nội dung kiến thức về các hình đã học một cách lôgic, ghi nhớ các công thức tính chu vi và diện tích các hình đó.
Hình ảnh sơ đồ tư duy về các hình tứ giác – Toán 4
4.3. Sử dụng sơ đồ tư duy giúp ôn tập, hệ thống hóa kiến thức một chương, một học kì
Tùy vào nội dung cần ôn tập mà GV có cách tổ chức các hoạt động để lập SĐTD. GV có thể lập một SĐTD mở, chỉ vẽ một số nhánh chính, có thể không đủ nhánh hoặc thiếu thông tin. GV yêu cầu HS tự bổ sung, thêm hoặc bớt thông tin để cuối cùng cả lớp lập được một SĐTD ôn tập, củng cố kiến thức chương đó tương đối hoàn chỉnh và hợp lí. Nhìn vào SĐTD, HS sẽ thấy được bức tranh tổng thể kiến thức của cả chương một cách dễ dàng.
Ví dụ: Lập SĐTD khi dạy học bài “Ôn tập về hình học” – Toán 4, tr.173.
GV có thể hướng dẫn HS như sau:
- GV viết cụm từ từ khóa “Ôn tập hình học” lên bảng, sau đó vẽ 3 nhánh chính theo 3 chủ đề lớn mà HS cần ôn tập: Góc và các loại góc; đường thẳng; các hình tứ giác.
- Mỗi nhánh chính GV sẽ đặt các câu hỏi liên quan để HS trả lời, nội dung các câu trả lời chính là các nhánh phụ cần xây dựng. Phần minh họa, lấy ví dụ về các góc, vẽ hình các tứ giác, … GV sẽ gọi HS lên bảng thực hiện, như thế vừa rèn luyện kĩ năng cho các em vừa giúp các em thêm hứng thú với SĐTD, say mê học tập. GV có thể kiểm tra được toàn diện HS bằng cách: Gọi 1 HS nêu công thức, HS khác lên bảng viết lại công thức, sau đó cho HS lấy ví dụ và tính nhanh hay GV cho ví dụ, yêu cầu HS tính xem ai nhanh, ai đúng.
- Khi các nhánh phụ được vẽ xong, GV cho HS thảo luận để chỉnh sửa, bổ sung nếu cần để hoàn thiện sơ đồ. Tiếp đó, GV có thể cho HS lên bảng thuyết minh lại nội dung kiến thức chính cần ôn tập về hình học qua SĐTD.
Nếu HS trong lớp đã khá thành thạo với các bước trên thì GV sẽ tổ chức cho HS thảo luận nhóm 6 để hoàn thành SĐTD của nhóm. Sau khi các nhóm hoàn thành, GV sử dụng kĩ thuật phòng tranh để tất cả HS trong lớp cùng đi chiêm nghiệm sản phẩm của nhóm bạn và đưa ra các bình luận bằng biểu tượng: Yêu thích: vẽ trái tim, thích – đánh dấu tích, chưa hài lòng – vẽ mặt buồn, … Đây là cơ hội cho HS được bày tỏ thái độ, quan điểm của mình với các sản phẩm của bạn.
Vào cuối tiết học GV đưa ra SĐTD mẫu và chỉ trên SĐTD các nội dung HS cần ôn tập, thực hành. Qua bài học này, HS có thể tự vẽ lại SĐTD theo mẫu của GV hay sáng tạo theo ý tưởng của mình để tái hiện lại kiến thức hình học.
Hình ảnh sơ đồ tư duy về ôn tập hình học - Toán 4
Nhìn chung, có thể sử dụng SĐTD trong tất cả các khâu của quá trình lên lớp từ kiểm tra bài cũ, triển khai bài mới đến củng cố kiến thức; từ việc thể hiện lượng kiến thức nhỏ đến lượng kiến thức lớn, từ đơn giản đến phức tạp; từ việc học cá nhân đến học nhóm, tập thể, … Tuy nhiên, không phải bất cứ nội dung nào, bài học nào cũng có thể sử dụng SĐTD và cũng không phải sử dụng áp đặt cho mọi giờ học. Cũng như các thiết bị dạy học khác, SĐTD cũng có những ưu điểm và hạn chế riêng của mình, do đó sử dụng SĐTD cần đúng lúc, đúng cách, phù hợp với đối tượng HS và quan trọng là đảm bảo việc truyền tải nội dung bài học. Vì vậy, GV cần có sự linh hoạt trong sử dụng SĐTD, cần xác định một số căn cứ để sử dụng SĐTD cho hợp lí, lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức, thiết bị dạy học cho tương xứng.
5. Ứng dụng bản đồ tư duy trong giảng dạy một số môn học
5.1. Ứng dụng bản đồ tư duy trong giảng dạy văn miêu tả lớp 4:
Một trong những phương pháp dạy Văn miêu tả mà tôi đã vận dụng trong quá trình giảng dạy chính là dạy bằng sơ đồ tư duy gồm các hoạt động sau:
Hoạt động 1: Cho học sinh đọc kỹ đề bài, tìm hiểu đề: Ở những tiết hướng dẫn học sinh quan sát, tìm ý các em có thể chọn chủ đề là đồ vật, con vật mà em định quan sát. Vẽ đơn giản hình ảnh đồ vật đó, sau đó vẽ các nhánh biểu thị cho các giác quan thương dùng khi quan sát: mắt, mũi, tay tai….từ các giác quan đó học sinh bắt đầu tìm ý bằng cách trả lời câu hỏi Nghe thấy gì? Nhìn thấy gì? Sờ thấy gì? Ngửi thấy gì? Từ những gì các em đã tìm được ở nhánh phụ , học sinh lại tiếp tục suy nghĩ để tìm ra những từ ngữ đa dạng hơn, phong phú hơn bằng cách động não và vẽ thêm các nhánh phụ tiếp theo. Chẳng hạn: khi tìm được từ chỉ hình dáng là cao thì các em có thể tìm thêm các nhánh con như: cao lênh khênh, cao chót vót. Như vậy, với việc vẽ sơ đồ tư duy học sinh có thể phát huy được hết khả năng ngôn ngữ của mình, tìm ý sâu sắc hơn, phong phú hơn và không bị bỏ sót các ý hay. Từ sơ đồ tư duy này, mỗi lần quan sát một đối tượng gì thì học sinh chỉ việc thay tên chủ đề và lập sơ đồ tìm ý rất nhanh.
Hoạt động 2: Vẽ sơ đồ tư duy theo mạch tư duy. Ví dụ: Nếu chọn viết về cây ăn quả, học sinh phải miêu tả vài đặc điểm như: Cây cao khoảng 2-3m, có nhiều tán lá xum xuê, quả màu vàng treo lủng lẳng… lập sơ đồ tư duy. Giáo viên có thể cho học sinh lập sơ đồ tư duy theo nhóm hay cá nhân với các gợi ý.
Hoạt động 3: Báo cáo, thuyết minh về sơ đồ tư duy. Cho một vài học sinh hoặc đại diện của các nhóm học sinh lên báo cáo, thuyết minh về sơ đồ tư duy mà nhóm mình đã thiết lập. Qua hoạt động này vừa biết rõ việc hiểu kiến thức của các em, vừa là một cách rèn cho các em khả năng thuyết trình trước đông người, giúp các em tự tin hơn, mạnh dạn hơn, đây cũng là một trong những điểm cần rèn luyện của học sinh hiện nay.
Hoạt động 4: Thảo luận, chỉnh sửa, hoàn thiện sơ đồ tư duy. Tổ chức cho học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện sơ đồ tư duy về kiến thức cần đạt của một bài văn. Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp học sinh hoàn chỉnh sơ đồ tư duy, từ đó dẫn dắt đến kiến thức trọng tâm của bài học.
Hoạt động 5: Củng cố kiến thức bằng sơ đồ tư duy. Nhìn vào sơ đồ tư duy, học sinh lần lượt trình bày các phần, từ mở bài đến kết luận, nêu tình cảm của mình.
Hoạt động 6: Dựa trên bản đồ tư duy, viết thành bài văn hoàn chỉnh.
Việc thiết kế bài giảng môn Tập làm văn bằng phương pháp dạy học sơ đồ tư duy sẽ dần hình thành cho học sinh tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa học. Sử dụng sơ đồ tư duy kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực khác như: vấn đáp gợi mở, thuyết trình có tính khả thi cao góp phần đổi mới phương pháp dạy học.
5.2. Ứng dụng bản đồ tư duy trong giảng dạy môn Lịch sử- Địa lí lớp 4:
Ví dụ : Bài Nhà Trần thành lập:
-Tôi cho học sinh xác định chủ thể là “Nhà Trần”. Học sinh tự vẽ chủ thể vào trang giấy.
-Cho học sinh nêu câu hỏi trong sách giáo khoa: Nhà Trần ra đời trong hoàn cảnh nào? Sau đó vẽ thêm tiêu đề: Hoàn cảnh ra đời.
-Ở tiêu đề này tôi gợi ý cho học sinh bằng câu hỏi: Cuối thế kỉ XII nước ta gặp phải khó khăn gì?( tình hình trong nước, ngoài nước). Học sinh đọc sách giáo khoa trả lời bằng cách vẽ tiếp các nhánh:
* Tôi hướng dẫn học sinh vẽ nhánh con thứ nhất, xác định từ khoá Nhà Lý
Gợi ý tiếp:
+ Biểu hiện của sự suy yếu là gì?
+ Học sinh tiếp tục vẽ các nhánh cháu vào các nhánh con này : ( tôi cho học sinh đánh số thứ tự vào các nhánh cháu để dễ dàng xác định được có mấy ý cần nhớ).
Chính quyền không chăm lo đến đời sống nhân dân.
Nội bộ triều đình mâu thuẫn.
Nhân dân cơ cực nổi dậy đấu tranh.
Tiếp tục học sinh sẽ vẽ nhánh con thứ 2: giặc phương Bắc
Học sinh tiếp tục vẽ các nhánh cháu vào các nhánh con này dựa vào các câu hỏi:
+ Nhà Lý đối phó ra sao?
Dựa vào họ Trần.
Trần Thủ Độ quyết định mọi việc.
Tiếp theo nhánh cháu 2: là Trần Thủ Độ tìm cách để Chiêu Hoàng lấy Trần Cảnh rồi nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh.
+ Vì sao lại nhường ngôi?
Lý Huệ Tông không có con trai nên truyền ngôi cho con gái là Chiêu Hoàng.
Chiêu Hoàng mới 7 tuổi.
Trong ví dụ này, tôi tiếp tục cho học sinh đọc câu hỏi : Nhà Trần đã có những việc làm gì để củng cố xây dựng đất nước?
Học sinh vẽ các tiêu đề 2: củng cố, xây dựng
Sau đó các em tự suy nghĩ và phát triển các tiêu đề này thành các nhánh:
+ Nhánh 2-1: Chia thánh 12 lộ
+ Nhánh con 2-2: nhường ngôi sớm
+ Nhánh con 2-3 : chuông ở thềm cung điện.
+ Vua, quan, dân gần gũi.
+ Quân đội.
+ Nông nghiệp
Như vậy tôi luôn tập cho học sinh biết đặt câu hỏi và có thói quen đặt câu hỏi sau mỗi nhánh các em vẽ để tư duy của các em không ngừng phát triển, và luôn luôn phát triển sơ đồ theo hướng mở, từ nhánh này lại sinh ra nhánh con, cháu…
Đối với các bài học tiếp theo, tôi cho học sinh tiếp tục vẽ vào sơ đồ này và hoàn chỉnh một triệu đại lịch sử gồm 3 bài với chỉ một trang giấy.
Dưới đây là một số sản phẩm, cũng là nội dung bài học Lịch sử được học sinh tự mô tả lại dưới dạng sơ đồ tư duy ở lớp tôi:
Ví dụ: Bài Dải đồng bằng Duyên hải miền Trung: Tôi có thể hướng dẫn học sinh vẽ các ý chính mà các em nắm bắt sau khi đọc sách. Chẳng hạn nội dung chính của bài: “Duyên hải miền Trung với nhiều đồng bằng nhỏ với những cồn cát, đầm, phá. Mùa hạ, tại đây thường khô, nóng và bị hạn hán. Cuối năm thường có mưa lớn và bão dễ gây ngập lụt. Khu vực phía bắc dãy Bạch Mã có mùa đông lạnh”
Học sinh vẽ lại theo nhóm, chẳng hạn có thể gợi mở cho học sinh bằng các câu hỏi:
- Vẽ đối tượng chính- chủ thể là gì? ( Dải đồng bằng Duyên hải miền Trung)
- Dựa vào nội dung ghi nhớ, các con cho cô biết : Nhánh con là gì? Có mấy nhánh con? ( có 5 nhánh con: Nhánh 1: Vị trí. Nhánh 2: Địa hình. Nhánh 3: Khí hậu. Nhánh 4: Dân cư. Nhánh 5: Hoạt động sản xuất. Các nhánh đêu có các nhánh phụ.
5.3. Ứng dụng bản đồ tư duy trong giảng dạy môn Khoa học lớp 4:
Qua nhiều năm thực hiện, tôi nhận thấy tiết học đạt hiệu quả cao hơn rất nhiều so với cách dạy truyền thống là đọc chép hoặc một tiết dạy chỉ sử dụng bằng bài giảng điện tử cho học sinh nhìn chép.
Sử dụng sơ đồ tư duy trong giờ dạy Khoa học sẽ bắt buộc tất cả 100% học sinh đều phải động não, sáng tạo và chỉ trong một tờ giấy các em có thể trình bày nội dung của bài học. Học sinh sẽ tự khám phá và khi tạo được một tác phẩm đẹp, ý tưởng hoàn chỉnh được giáo viên và các bạn ngợi khen sẽ phấn khởi rất nhiều.
Các em khác cũng sẽ cố gắng tự hoàn thiện mình và mỗi học sinh có một tính cách, một ý tưởng rất khác nhau khi trình bày sơ đồ tư duy của mình nhưng điều quan động là các em biết cách tự ghi chép đầy đủ nội dung bài học để học ở nhà có thể trình bày trước tập thể lớp và ghi nhớ lâu kiến thức bài học.
5.4. Ứng dụng bản đồ tư duy trong giảng dạy môn Toán lớp 4:
Sơ đồ tư duy hệ thống kiến thức môn Toán lớp 4 bao gồm sơ đồ tổng quát hệ thống kiến thức và các sơ đồ chi tiết cho từng dạng toán lớp 4 giúp các em học sinh nắm bắt được các kiến thức toàn bộ chương trình học dễ nhớ, dễ thuộc
Ví dụ: Về ôn luyện với sơ đồ tư duy:
Sau khi học xong bất kì vấn đề gì cũng cần ôn luyện vì theo nguyên lý đào thải nếu không ôn tập, vận dụng một thời gian thì chắc chắn các em học sinh sẽ quên những gì đã học. Vì vậy, sau mỗi bài học, tôi có thể giúp học sinh ôn bài, nhớ bài ngay tại lớp bằng cách đọc lại sơ đồ tư duy. Về nhà các em có thể ôn luyện lại để nhớ lâu hơn. Nên thường xuyên sử dụng sơ đồ tư duy khi làm việc nhóm và hệ thống kiến thức đã học trong các môn học ở trường, đặc biệt là khi ôn tập cho các kì thi.
Bốn mốc thời gian ôn luyện:
Theo Lê Phan Viên Hy, huấn luyện viên trung tâm đào tạo kỹ năng sống TGM, sau khi vẽ xong, ngay lập tức ghi các thời điểm ôn lại vào góc nhỏ trên sơ đồ. Đồng thời ghi các thời điểm đó vào sổ tay để xem và thiết lập thời gian. Thời gian ôn luyện lí tưởng như sau: 10 phút, 1 ngày, 1 tuần, 1 tháng sau khi vẽ.
Các bước ôn luyện như sau:
Nhìn qua sơ đồ, không đọc nội dung mà ước chừng thời gian để có thể ghi lại hết các nét và từ khoá.
Chỉnh đồng hồ báo thức đúng thời lượng rồi bắt đầu học bài bằng cách ghi lại từng nhánh sơ đồ.
Đối chiếu bài làm với bản chính.
Có thể trong lần đầu sẽ thiếu sót một vài từ khoá, một vài nhánh, hãy nhìn kỹ những từ khoá đó để chắc chắn không quên trong các lần ôn tiếp theo.
Mẹo học và ôn bài kết hợp với sơ đồ tư duy:
Các em học sinh rất khó có thể nhớ hết kiến thức đã học vì cách ghi truyền thống rất nhạt nhẽo, đơn điệu. Học sinh sẽ tăng cường được sức mạnh của trí nhớ bằng cách tạo ra những ghi chú làm nổi bật thông tin. Các em cũng có khuynh hướng ghi nhớ những sự việc buồn cười, khác thường, và hay nhớ được các sự việc mà chúng ta tưởng tượng ra. Đặc biệt là khi dùng nhiều giác quan để tưởng tượng. Nói cách khác thay vì tưởng tượng đơn gian hình dáng một trí chuối thì hãy tưởng tượng thêm vị ngọt, mùi hương, màu sắc của nó.
* Đối với các môn học cần học thuộc kiến thức thì có thể áp dụng một bí quyết học bài nhanh, nhớ lâu khi vẽ sơ đồ tư duy là vẽ và xâu chuỗi lại thành một câu chuyện hài, dí dỏm.
Ví dụ: Tiết luyện từ và câu: Mở rộng vốn từ: Sức khoẻ
Để nhớ được các từ ngữ nói lên một cơ thể khoẻ mạnh: sau khi tìm được các từ sau: vạm vỡ, lực lưỡng, cân đối, rắn chắc, rắn rỏi, chắc nịch, cường tráng, dẻo dai, nhanh nhẹn…tôi giúp học sinh vẽ và xâu chuỗi thành câu chuyện vui sau:
“Chuẩn bị cho kì thi sức khoẻ, anh Vạm hay làm vỡ đồ (nên gọi là vạm vỡ) và anh Lực nhà bác Lưỡng ( lực lưỡng) rủ nhau đi cân ( cân đối). Hai anh gặp hai con rắn là rắn rỏi và rắn chắc, liền rút dây nịt ( chắc nịch) ra quật con rắn, ai dè rút dây ra thì tụt quần, khó đánh rắn. Hai anh phải nhờ đến anh Cường làm bánh tráng (cường tráng) nổi tiếng bánh rất ngon và dẻo (dai). Ba anh đã hợp sức lại và chiến thắng hai con rắn một cách nhanh nhẹn.
Học sinh rất vui và hứng thú khi cùng tôi khám phá câu chuyện trên đồng thời các em đã thuộc bài ngay tại lớp, đặc biệt những em học bình thường rất chậm hôm nay cũng thuộc ngay, các em trở nên thích học và rất tự tin.
c. Kết quả khảo nghiệm, giá trị của vấn đề nghiên cứu, phạm vi và hiệu quả ứng dụng
Qua việc ứng dụng dạy học bằng sơ đồ tư duy tôi thu được kết quả ở hai phương diện:
-Thứ nhất: là tăng sự hứng thú của học sinh trong các giờ học. Điều này được thể hiện qua kết quả khảo sát như sau:
+ Trong giờ học, quan sát tần suất giơ tay của học sinh cho thấy, suốt 40 phút, các em chú ý học bài hơn, cùng những câu hỏi như nhau nhưng có đến 15 lần học sinh phát biểu, số câu trả lời đúng nhiều hơn.
+ Về thái độ của học sinh, có đến 16 hs – 47,06% học sinh trong lớp có thái độ thích thú và 18 hs – 52,94% rất thích thú các tiết học Tiếng Việt bằng sơ đồ tư duy.
+ Về quan niệm có thể sử dụng sơ đồ tư duy trong học tập trong dạy học thì có đến 32 hs – 94,12% học sinh trong lớp cho rằng sơ đồ tư duy có thể được sử dụng trong các tiết học.
+ Về nhận thức những ưu điểm khi sử dụng sơ đồ tư duy trong các tiết học : Đa số học sinh đều nhận thức được những ưu điểm khi sử dụng sơ đồ tư duy trong các tiết học. Cụ thể: Có đến 32 hs - tỉ lệ 94,12% cho rằng sơ đồ tư duy giúp học sinh dễ tóm tắt nội dung kiến thức bài học. Có 30 hs - tỉ lệ 88,24% cho rằng sơ đồ tư duy giúp học sinh dễ nhớ nội dung bài học. Có 29 hs - tỉ lệ 85,29% cho rằng sơ đồ tư duy giúp học sinh phát huy sự chủ động, sáng tạo trong giờ học. Và có 28 hs - tỉ lệ 82,35% cho rằng sơ đồ tư duy giúp học sinh dễ vận dụng nội dung thức bài học vào làm bài kiểm tra.
Kết quả:
STT |
MÔN |
Giữa kì I |
Cuối kì I |
Giữa kì II |
||||||
HTT |
HT |
CHT |
HTT |
HT |
CHT |
HTT |
HT |
CHT |
||
1 |
Tiếng Việt |
14 |
17 |
3 |
15 |
17 |
2 |
11 |
20 |
3 |
2 |
Toán |
3 |
27 |
7 |
19 |
5 |
0 |
24 |
9 |
1 |
3 |
Khoa học |
15 |
19 |
0 |
15 |
13 |
2 |
20 |
14 |
|
4 |
LS-ĐL |
17 |
17 |
0 |
15 |
15 |
0 |
21 |
13 |
|
- Thứ hai: Đa số HS đều hiểu bài, ghi nhớ nhanh kiến thức và vận dụng lí thuyết vào giải các bài tập rất đơn giản, hiệu quả. Sử dụng SĐTD trong dạy học thu hút sự chú ý của HS, khơi dậy được tính tích cực, sáng tạo của các em khi trả lời câu hỏi và vẽ các nhánh của SĐTD. Các em đã trao đổi, hợp tác hiệu quả với bạn để hoàn thành nhiệm vụ của nhóm. Bước đầu hình thành cho HS một phương pháp học tập mới.
- Bảng so sánh kết quả khảo sát vào đầu tháng 9/2022 và cuối tháng 3/2023:
Tổng số HS |
Kĩ năng tư duy |
Thời điểm khảo sát |
|||
Tháng 9/2022 |
Tháng 03/2023 |
||||
Số lượng |
Tỉ lệ |
Số lượng |
Tỉ lệ |
||
34 học sinh |
Sáng tạo |
1 |
2,94% |
2 |
5.88% |
Đánh giá |
1 |
2,94% |
4 |
11,76% |
|
Phân tích |
3 |
8,82% |
5 |
14,71% |
|
Ứng dụng |
6 |
17,65% |
7 |
20% |
|
Hiểu biết |
5 |
14,71% |
6 |
17.65% |
|
Ghi nhớ |
18 |
52,94% |
9 |
26,47% |
Biểu đồ so sánh sự phát triển tư duy của HS trước và sau khi áp dụng biện pháp ứng dụng kĩ thuật SĐTD vào dạy học:
Việc vận dụng SĐTD vào dạy học sẽ dần hình thành cho HS kĩ năng tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, hệ thống, khoa học. Sử dụng SĐTD kết hợp với các PPDH tích cực khác như: Dạy học hợp tác, vấn đáp – gợi mở, phát hiện và giải quyết vấn đề, … phát huy năng lực, phẩm chất học sinh, có tính khả thi cao, góp phần đổi mới phương pháp dạy học, là một bước đệm cho việc nâng cao chất lượng dạy và học.
III. Phấn kết luận, kiến nghị
1. Kết luận
Biện pháp đã đánh giá về thực trạng dạy và học của học sinh lớp 4C Trường Tiểu học ............ thông qua kết quả khảo sát các kĩ năng tư duy vào đầu năm học. Đồng thời, biện pháp đã tập trung nêu nội dung và cách thức thực hiện biện pháp ứng dụng SĐTD khi dạy học cho học sinh lớp 4C với các minh chứng và ví dụ cụ thể. Muốn cho học sinh phát triển tốt các kĩ năng tư duy thì người GV cần nghiên cứu nội dung chương trình, bài học, lựa chọn ra những phần, những bài có khả năng áp dụng SĐTD. Sau đó, GV phân tích nội dung bài dạy, tìm ra những vấn đề, những biểu tượng, khái niệm cần hình thành và truyền đạt cho HS, xác định các dạng bài tập phù hợp với đối tượng HS, quỹ thời gian, điều kiện trường lớp, trang thiết bị dạy học; đặc biệt phải biết kết hợp các biện pháp một cách nhuần nhuyễn, linh động và sáng tạo.
Qua quá trình nghiên cứu, giảng dạy và trực tiếp áp dụng kĩ thuật SĐTD khi dạy học ở lớp 4 Trường Tiểu học ............ năm học 2022 – 2023, kết quả bước đầu rất đáng khích lệ: HS đã có nhiều thay đổi và hướng tới kĩ năng tư duy tích cực trong học tập, đoàn kết bạn bè, biết quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ mọi người, biết vươn lên trong học tập và cuộc sống, … Bên cạnh đó, việc rèn luyện thói quen, kĩ năng tư duy, học tập khoa học cho HS là một quá trình rèn luyện lâu dài, liên tục, ở nhiều môi trường khác nhau và liên quan nhiều đến nhiều mối quan hệ xã hội. Vì vậy nó đòi hỏi người GV phải khéo léo trong ứng xử, có tính kiên trì, bền bỉ, tế nhị để có thể tìm hiểu sâu sắc từng đối tượng HS, và thương yêu các em với một tình cảm chân thành.
Bước đầu nghiên cứu đề tài, cho phép tôi kết luận: Việc vận dụng biện pháp trên để phát triển kĩ năng tư duy cho HS sẽ dần hình thành cho HS, thói quen, ý thức tự giác, tinh thần kỉ luật, làm việc khoa học, tư duy mạch lạc, có hệ thống, góp phần hoàn thiện mục tiêu giáo dục “Đức – Trí – Thể – Mĩ” cho HS tiểu học và nâng cao chất lượng dạy học.
2. Kiến nghị
- Nhà trường cần thường xuyên tổ chức các buổi bồi dưỡng cho GV trong trường các PPDH tích cực để GV được học hỏi, trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm với GV khi dạy học tất cả các môn học.
- Mong Phòng Giáo dục, Sở Giáo dục quan tâm hơn nữa tới các trường có tỉ lệ HS dân tộc thiểu số cao về điều kiện cơ sở vật chất còn nghèo nàn, cố gắng xây dựng phòng học để đáp ứng nhu cầu dạy và học của GV, HS trong thời gian tới. Hằng năm, Phòng Giáo dục, Sở Giáo dục tổ chức thêm các lớp tập huấn về PPDH tích cực để GV có thêm cơ hội học tập và tìm hiểu về phương pháp mới.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
- Điện thoại Holine: 0847355079
- Zalo (không kết bạn): 0942137445
- Gmail: bienphapgiaoduc@gmail.com
Đây là Sáng kiến mới 100%, do thầy Lê Hồng Minh thiết kế nhằm hỗ trợ miễn phí cho giáo viên phục vụ công việc dạy học và được đăng tải độc quyền trên website bienphap.vn. Thầy nghiêm cấm tất cả mọi người không được phép chia sẻ lại hoặc buôn bán trên tất cả các trang mạng xã hội dưới bất cứ hình thức nào!
Sáng kiến Ứng dụng CNTT để phát triển năng lực cảm thụ âm nhạc cho học sinh lớp 5
31/07/2025 10:03
Sáng kiến Ứng dụng CNTT để phát triển năng lực cảm thụ âm nhạc cho học sinh lớp 5 là một sáng kiến mới được thầy Lê Hồng Minh thiết kế nhằm hỗ trợ miễn phí cho giáo viên dạy Âm nhạc tiểu học tham khảo, lấy tư liệu phục vụ công tác giảng dạy.
Vận dụng chuyển đổi số và các hoạt động sáng tạo để phát triển văn hóa đọc trong trường tiểu học
28/07/2025 08:20
Vận dụng chuyển đổi số và các hoạt động sáng tạo để phát triển văn hóa đọc trong trường tiểu học là một sáng kiến do thầy Lê Hồng Minh thiết kế mới, được đăng tải độc quyền lên website bienphap.vn nhằm hỗ trợ miễn phí cho thầy cô thực hiện tốt nhiệm vụ dạy học của mình.
Một số giải pháp giúp học sinh rèn luyện hành vi tích cực và phát triển phẩm chất đạo đức
23/07/2025 08:02
Một số giải pháp giúp học sinh rèn luyện hành vi tích cực và phát triển phẩm chất đạo đức
Ứng dụng phương pháp dạy học tích cực để nâng cao nề nếp cho học sinh lớp 1
20/07/2025 08:00
Ứng dụng phương pháp dạy học tích cực để nâng cao nề nếp cho học sinh lớp 1
Ứng dụng mô hình toán học để phát triển kỹ năng giải toán cho học sinh lớp 4
17/07/2025 10:14
đề tài: "Ứng dụng mô hình toán học để phát triển kỹ năng giải toán cho học sinh lớp 4 theo bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống"
17/07/2025 22:10
Ứng dụng công nghệ thông tin để dạy học môn Lịch sử lớp 5, giúp học sinh tích cực học tập và yêu thích môn học
Một số giải pháp giúp học sinh lớp 1 yêu thích học môn Tiếng Việt
13/07/2025 10:25
Một số giải pháp giúp học sinh lớp 1 yêu thích học môn Tiếng Việt
Một số giải pháp rèn chữ viết cho học sinh lớp 1.
11/07/2025 07:35
Một số giải pháp rèn chữ viết cho học sinh lớp 1