Ứng dụng CNTT để khơi dậy hứng thú học Địa lí cho học sinh lớp 9
Ngày đăng: 01/08/2025 20:43
Ngày đăng: 01/08/2025 20:43
Tin liên quan
Môn Địa lí giữ vai trò quan trọng trong việc giúp học sinh hiểu biết về thế giới tự nhiên và các hoạt động kinh tế – xã hội của con người. Đặc biệt ở bậc trung học cơ sở, Địa lí không chỉ trang bị cho học sinh những kiến thức về đặc điểm tự nhiên, dân cư, kinh tế của đất nước và các khu vực trên thế giới, mà còn góp phần hình thành cho các em năng lực tư duy không gian, kỹ năng khai thác bản đồ, bản vẽ, số liệu và khả năng phân tích mối liên hệ giữa các hiện tượng địa lí. Qua đó, môn học góp phần giáo dục lòng yêu thiên nhiên, ý thức bảo vệ môi trường, nâng cao trách nhiệm với cộng đồng và bồi dưỡng tư duy địa lí phục vụ cho việc định hướng nghề nghiệp sau này.
Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy việc dạy học Địa lí ở bậc trung học cơ sở vẫn còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là ở lớp 9 – khi học sinh chịu nhiều áp lực học tập từ các môn thi chuyển cấp. Nhiều em vẫn xem Địa lí là môn phụ, học để đối phó và không thật sự đầu tư nghiêm túc. Tình trạng học sinh học thụ động, học vẹt, ngại đọc bản đồ hay không biết cách phân tích số liệu địa lí vẫn còn phổ biến. Các tiết học chủ yếu dựa vào sách giáo khoa, hình ảnh tĩnh, ít liên hệ thực tiễn nên thiếu tính sinh động, từ đó làm giảm hứng thú học tập của học sinh. Trong khi đó, nội dung Địa lí lớp 9 lại đòi hỏi tư duy tổng hợp cao, lượng kiến thức khá lớn, nhiều thuật ngữ chuyên môn, nếu không có cách truyền tải hấp dẫn thì học sinh dễ chán nản, lơ là.
Trước xu thế đổi mới giáo dục và chuyển đổi số quốc gia, nhà trường đã tích cực triển khai nhiều hoạt động nhằm ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học, đặc biệt là khuyến khích giáo viên đổi mới phương pháp thông qua việc tích hợp các phần mềm giảng dạy, khai thác tài nguyên số, tổ chức hoạt động trải nghiệm và học tập qua dự án. Nhiều lớp học đã được trang bị máy chiếu, internet ổn định; học sinh cũng có điều kiện tiếp cận với điện thoại thông minh, máy tính bảng, qua đó tạo tiền đề thuận lợi cho việc đổi mới hình thức dạy học. Tuy nhiên, thực tế triển khai vẫn còn gặp nhiều lúng túng. Một số giáo viên còn e dè với công nghệ, việc xây dựng bài giảng tích hợp CNTT còn mang tính hình thức hoặc chưa thực sự phát huy hiệu quả. Mặt khác, học sinh vẫn chưa được hướng dẫn đầy đủ để khai thác Internet một cách khoa học, nên việc tự học, tự tìm hiểu kiến thức địa lí vẫn còn hạn chế.
Từ nhận thức của bản thân, tôi cho rằng việc vận dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy Địa lí lớp 9 một cách hợp lý không chỉ giúp học sinh hứng thú hơn, mà còn góp phần nâng cao chất lượng dạy học và phát triển các phẩm chất, năng lực cốt lõi cho học sinh. Người giáo viên không chỉ truyền đạt kiến thức, mà còn là người tổ chức, dẫn dắt học sinh bước vào một thế giới học tập đa chiều, sống động và có kết nối với thực tiễn. Chính vì vậy, tôi quyết định chọn đề tài “Ứng dụng CNTT để khơi dậy hứng thú học Địa lí cho học sinh lớp 9” nhằm nghiên cứu, đề xuất các giải pháp thiết thực, hiện đại, từ đó góp phần làm mới cách tiếp cận môn học và tạo cảm hứng học tập bền vững cho các em.
Đề tài hướng đến mục tiêu trọng tâm là ứng dụng công nghệ thông tin một cách linh hoạt và sáng tạo nhằm khơi dậy hứng thú học tập môn Địa lí cho học sinh lớp 9. Qua việc triển khai các giải pháp cụ thể như sử dụng video minh họa, bản đồ số, trò chơi tương tác, thuyết trình nhóm bằng công cụ số hay tổ chức dự án học tập trên nền tảng trực tuyến, giáo viên không chỉ tạo điều kiện cho học sinh tiếp cận kiến thức một cách sinh động mà còn phát triển các năng lực quan trọng như tư duy phân tích, hợp tác nhóm, tự học và ứng dụng kiến thức vào thực tiễn. Thông qua việc đổi mới hình thức và phương pháp giảng dạy, đề tài còn hướng đến việc làm thay đổi nhận thức của học sinh về môn học, từ chỗ thụ động tiếp nhận sang chủ động tìm tòi, yêu thích và hứng khởi với từng tiết học Địa lí.
Bên cạnh đó, việc nghiên cứu và thực hiện đề tài cũng giúp bản thân người giáo viên nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ trong dạy học, biết lựa chọn công cụ phù hợp để thiết kế hoạt động học tập tích cực, qua đó góp phần thực hiện hiệu quả mục tiêu chuyển đổi số trong giáo dục. Từ thực tiễn giảng dạy tại lớp 9, đề tài hướng đến việc tổng kết các mô hình, công cụ và cách triển khai phù hợp, có khả năng nhân rộng trong toàn trường hoặc áp dụng cho các lớp khác trong bậc THCS.
Sáng kiến không chỉ dừng lại ở việc sử dụng công nghệ thông tin như một phương tiện hỗ trợ minh họa trong giảng dạy, mà tập trung vào việc tái thiết kế hoạt động học tập theo hướng trải nghiệm số và tương tác chủ động của học sinh. Tính mới của đề tài thể hiện rõ ở việc lồng ghép hiệu quả các nền tảng công nghệ số hiện đại như bản đồ số Google Earth, hệ thống câu hỏi tương tác trực tuyến Wordwall, trò chơi kiểm tra kiến thức trên Quizizz, hay trình chiếu bằng Canva – tất cả đều hướng đến việc biến mỗi tiết học Địa lí thành một hành trình khám phá hấp dẫn.
Một điểm mới nổi bật khác là việc chuyển vai trò giáo viên từ người giảng giải sang người tổ chức trải nghiệm học tập, trong đó học sinh là trung tâm của quá trình kiến tạo kiến thức. Các hoạt động như xây dựng dự án nghiên cứu vùng địa lí qua bản đồ số, thuyết trình nhóm có ứng dụng hình ảnh/video thực tế từ internet, thi đua qua bảng điểm tương tác… đã giúp học sinh thấy được ý nghĩa thực tiễn của môn Địa lí trong đời sống, từ đó hình thành niềm yêu thích tự nhiên, không gượng ép.
Đề tài cũng mới ở chỗ đề xuất sử dụng công nghệ số để động viên, đánh giá học sinh theo hướng linh hoạt và tích cực, chẳng hạn như thiết kế hệ thống tuyên dương trực tuyến bằng huy hiệu số, bảng xếp hạng nhóm qua nền tảng số… giúp lan tỏa tinh thần thi đua lành mạnh và duy trì động lực học tập lâu dài.
Như vậy, tính mới của đề tài không chỉ nằm ở công cụ công nghệ được ứng dụng, mà còn ở cách tiếp cận hiện đại trong tổ chức dạy học môn Địa lí – vừa phát triển năng lực học sinh, vừa xây dựng môi trường học tập số hấp dẫn, gần gũi, hiệu quả.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là học sinh lớp 9 trong bậc Trung học cơ sở, cụ thể là nhóm học sinh đang học môn Địa lí theo chương trình giáo dục phổ thông hiện hành. Đây là lứa tuổi có nhiều đặc điểm tâm lý đang chuyển biến mạnh mẽ, có nhu cầu cao trong việc trải nghiệm, tìm tòi và học tập gắn với thực tiễn. Tuy nhiên, các em cũng dễ bị chi phối bởi áp lực học tập từ các môn thi chuyển cấp, vì vậy rất cần những phương pháp dạy học đổi mới để giữ vững hứng thú và động lực học tập.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quá trình tổ chức dạy học Địa lí lớp 9 trong chương trình trung học cơ sở, trong đó các hoạt động được triển khai trực tiếp trong các tiết học thực tế tại lớp, kết hợp với một số hình thức học tập ngoài lớp học như giao bài qua nền tảng số, hướng dẫn học sinh thực hiện dự án nhóm hoặc cá nhân với sự hỗ trợ của công nghệ. Đề tài được khảo sát và thực nghiệm trong phạm vi một lớp học cụ thể, từ đó đúc kết kinh nghiệm, đánh giá hiệu quả và đề xuất khả năng mở rộng, nhân rộng mô hình trong phạm vi toàn khối hoặc toàn trường.
Để thực hiện đề tài này một cách hiệu quả và đảm bảo tính khách quan, tôi đã sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu phù hợp với đặc thù môn học và đối tượng học sinh lớp 9.
Trước hết là phương pháp điều tra – khảo sát thực trạng, được thực hiện thông qua việc phát phiếu khảo sát, trao đổi trực tiếp với học sinh và giáo viên cùng bộ môn nhằm nắm bắt mức độ yêu thích môn học, tần suất sử dụng CNTT trong dạy học và những thuận lợi, khó khăn trong quá trình triển khai. Đây là cơ sở quan trọng để xác định vấn đề cần tập trung đổi mới.
Tiếp theo, tôi sử dụng phương pháp quan sát sư phạm, thông qua các tiết học thực nghiệm có áp dụng CNTT để theo dõi phản ứng của học sinh, mức độ tham gia vào hoạt động học và hiệu quả ghi nhớ kiến thức. Bên cạnh đó, việc phân tích, đối chiếu kết quả học tập và sự tiến bộ của học sinh qua các bài kiểm tra thường xuyên, bài thuyết trình nhóm hoặc sản phẩm học tập số cũng được tiến hành một cách nghiêm túc để đo lường hiệu quả các giải pháp.
Ngoài ra, tôi còn áp dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu để tìm hiểu những xu hướng tích hợp CNTT trong dạy học môn Địa lí từ các tài liệu chuyên môn, công trình khoa học giáo dục, cũng như tham khảo kinh nghiệm của các trường khác đã triển khai thành công.
Cuối cùng, tôi tiến hành thực nghiệm sư phạm, áp dụng các giải pháp cụ thể vào thực tế giảng dạy trong nhiều tiết học Địa lí lớp 9, sau đó đánh giá hiệu quả, điều chỉnh cách làm cho phù hợp với đặc điểm học sinh, nội dung bài học và điều kiện cơ sở vật chất tại đơn vị.
Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực đặt ra yêu cầu đổi mới mạnh mẽ phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, trong đó lấy học sinh làm trung tâm, tăng cường tính chủ động, tích cực và sáng tạo của người học. Môn Địa lí trong chương trình “Kết nối tri thức với cuộc sống” không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ kiến thức, mà còn chú trọng rèn luyện kỹ năng địa lí, phát triển tư duy không gian, hình thành năng lực vận dụng kiến thức vào thực tiễn, từ đó giúp học sinh yêu thích việc khám phá thế giới tự nhiên và đời sống con người qua lăng kính khoa học địa lí.
Trong bối cảnh đó, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học không chỉ là yêu cầu tất yếu của chuyển đổi số trong giáo dục mà còn là một phương tiện hữu hiệu để cụ thể hóa tinh thần của chương trình mới. CNTT cho phép giáo viên thiết kế bài giảng sinh động, trực quan, dễ tiếp cận; đồng thời giúp học sinh tương tác với kiến thức một cách đa chiều, linh hoạt hơn thông qua video, bản đồ số, trò chơi học tập, trình chiếu thuyết trình và các dự án nhóm có hỗ trợ công nghệ. Việc tích hợp các công cụ số như Google Earth, Wordwall, Quizizz, Canva… góp phần biến tiết học thành một không gian trải nghiệm hấp dẫn, từ đó kích thích hứng thú, tăng khả năng tiếp thu và giúp học sinh ghi nhớ kiến thức sâu hơn.
Đặc biệt, sách giáo khoa Địa lí 9 thuộc bộ “Kết nối tri thức với cuộc sống” được biên soạn theo hướng tích hợp liên môn, gắn với thực tiễn địa phương, rất cần sự hỗ trợ của CNTT để giúp học sinh hình dung các vùng kinh tế, các hiện tượng tự nhiên – xã hội qua bản đồ, hình ảnh động, tình huống thực tế. Sách cũng khuyến khích tổ chức các hoạt động học tập theo nhóm, hoạt động trải nghiệm và học tập qua dự án – đây chính là cơ hội để CNTT phát huy vai trò trong việc cung cấp tư liệu số, nền tảng tổ chức và công cụ đánh giá.
Như vậy, xét từ yêu cầu của chương trình mới, đặc điểm của môn học và sự phát triển của công nghệ hiện đại, việc ứng dụng CNTT để khơi dậy hứng thú học Địa lí không chỉ là hướng đi phù hợp mà còn là giải pháp thiết thực giúp giáo viên và học sinh đáp ứng mục tiêu giáo dục trong thời đại chuyển đổi số.
Trong quá trình trực tiếp giảng dạy môn Địa lí lớp 9 theo chương trình sách giáo khoa “Kết nối tri thức với cuộc sống”, tôi nhận thấy học sinh có nhiều biểu hiện thiếu hứng thú với môn học. Dù nội dung bài học đã gần gũi hơn, có liên hệ thực tiễn rõ ràng và yêu cầu học sinh tham gia hoạt động tích cực, nhưng nếu chỉ triển khai bằng phương pháp truyền thống thì nhiều tiết học vẫn chưa tạo được sự cuốn hút. Học sinh thường lúng túng khi đọc bản đồ, khó hình dung các vùng kinh tế, chưa tích cực tham gia thảo luận nhóm hoặc còn ngại phát biểu xây dựng bài. Việc ghi nhớ kiến thức mang tính địa danh, số liệu cũng khiến các em nhàm chán nếu không có công cụ hỗ trợ trực quan.
Bên cạnh đó, khi thực hiện các tiết học có ứng dụng CNTT, tôi nhận thấy học sinh hứng khởi hơn hẳn. Các em hào hứng khi được khám phá địa lí bằng video, trò chơi tương tác, bản đồ động và thuyết trình nhóm trên nền tảng số. Những giờ học như vậy thường thu hút sự tham gia đồng đều, kể cả những em vốn nhút nhát hay học yếu. Từ thực tế đó, tôi nhận thức rõ rằng việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy không chỉ làm mới tiết học mà còn góp phần hình thành ở học sinh kỹ năng học tập hiện đại, từ đó thúc đẩy sự hứng thú, tích cực và tự chủ trong học tập môn Địa lí.
Trong quá trình trực tiếp giảng dạy môn Địa lí lớp 9 theo chương trình sách giáo khoa “Kết nối tri thức với cuộc sống”, tôi nhận thấy học sinh có nhiều biểu hiện thiếu hứng thú với môn học. Dù nội dung bài học đã gần gũi hơn, có liên hệ thực tiễn rõ ràng và yêu cầu học sinh tham gia hoạt động tích cực, nhưng nếu chỉ triển khai bằng phương pháp truyền thống thì nhiều tiết học vẫn chưa tạo được sự cuốn hút. Học sinh thường lúng túng khi đọc bản đồ, khó hình dung các vùng kinh tế, chưa tích cực tham gia thảo luận nhóm hoặc còn ngại phát biểu xây dựng bài. Việc ghi nhớ kiến thức mang tính địa danh, số liệu cũng khiến các em nhàm chán nếu không có công cụ hỗ trợ trực quan.
Bên cạnh đó, khi thực hiện các tiết học có ứng dụng CNTT, tôi nhận thấy học sinh hứng khởi hơn hẳn. Các em hào hứng khi được khám phá địa lí bằng video, trò chơi tương tác, bản đồ động và thuyết trình nhóm trên nền tảng số. Những giờ học như vậy thường thu hút sự tham gia đồng đều, kể cả những em vốn nhút nhát hay học yếu. Từ thực tế đó, tôi nhận thức rõ rằng việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy không chỉ làm mới tiết học mà còn góp phần hình thành ở học sinh kỹ năng học tập hiện đại, từ đó thúc đẩy sự hứng thú, tích cực và tự chủ trong học tập môn Địa lí.
Trước hết, nhà trường rất quan tâm đến việc đổi mới phương pháp dạy học và tích cực triển khai ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy các môn học, đặc biệt là các môn Khoa học xã hội như Địa lí. Các phòng học được trang bị máy chiếu, kết nối Internet ổn định, giáo viên được khuyến khích xây dựng bài giảng số và tham gia các lớp tập huấn về chuyển đổi số trong giáo dục. Học sinh lớp 9 phần lớn đã có kỹ năng sử dụng thiết bị điện tử cơ bản, khả năng tiếp cận công cụ công nghệ tốt và sẵn sàng tham gia các hoạt động học tập sáng tạo có sử dụng CNTT. Bên cạnh đó, nội dung sách giáo khoa Địa lí 9 thuộc bộ “Kết nối tri thức với cuộc sống” được biên soạn theo hướng mở, tích hợp, rất phù hợp để triển khai các hoạt động dạy học bằng công nghệ, mang đến nhiều cơ hội để học sinh trải nghiệm và tìm hiểu kiến thức qua hình ảnh, bản đồ số, video, trò chơi…
Tuy vậy, việc ứng dụng CNTT trong dạy học Địa lí lớp 9 cũng còn gặp một số trở ngại. Một bộ phận giáo viên còn hạn chế trong việc khai thác các phần mềm, công cụ dạy học hiện đại, dẫn đến việc triển khai còn mang tính hình thức, chưa thực sự phát huy hiệu quả. Một số tiết học lạm dụng công nghệ mà thiếu định hướng rõ ràng khiến học sinh bị phân tán, chưa tập trung vào trọng tâm bài học. Ngoài ra, không phải tất cả học sinh đều có thiết bị cá nhân hỗ trợ học tập ngoài giờ học, điều này ảnh hưởng đến việc giao nhiệm vụ học tập số hay dự án cá nhân. Thời lượng chương trình cũng là một rào cản khiến giáo viên khó có đủ thời gian tổ chức các hoạt động công nghệ mang tính trải nghiệm hoặc làm việc nhóm sâu. Đặc biệt, sự chênh lệch về năng lực học sinh khiến giáo viên cần đầu tư nhiều công sức để phân hóa nhiệm vụ, tránh tình trạng học sinh giỏi hứng thú còn học sinh yếu lại bị thụ động.
Để nắm bắt được mức độ hứng thú và thói quen học tập môn Địa lí của học sinh lớp 9, tôi đã tiến hành một cuộc khảo sát đầu năm học với 38 học sinh trong lớp 9A. Phiếu khảo sát gồm các câu hỏi xoay quanh thái độ học tập, mức độ yêu thích môn học, mức độ tiếp cận công nghệ trong quá trình học tập và sự tham gia vào các hoạt động học có sử dụng CNTT.
Kết quả khảo sát cho thấy: chỉ có 10/38 học sinh (26%) cho rằng các tiết học Địa lí thật sự hấp dẫn và mang lại nhiều trải nghiệm. 15 em (39%) cho biết các em học Địa lí chủ yếu bằng cách đọc sách giáo khoa và ghi nhớ máy móc, không có hứng thú tìm hiểu sâu. Chỉ có 8 em (21%) từng tham gia một tiết học Địa lí có ứng dụng trò chơi số hoặc bản đồ số. Đặc biệt, đến 30 em (79%) mong muốn được học Địa lí thông qua video, hình ảnh động, trò chơi và dự án có sử dụng công nghệ.
Từ kết quả trên có thể thấy rằng: học sinh vẫn còn học môn Địa lí theo cách thụ động, thiếu trải nghiệm, trong khi nhu cầu được học tập qua công nghệ là rất lớn. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với giáo viên phải thay đổi cách dạy, ứng dụng CNTT một cách sáng tạo và hiệu quả hơn để đáp ứng nhu cầu học tập mới của học sinh trong thời đại số.
Một trong những nguyên nhân khiến học sinh ít hứng thú với môn Địa lí là do khó hình dung được các hiện tượng tự nhiên, vùng lãnh thổ, hoạt động sản xuất hoặc phân bố dân cư... khi chỉ tiếp cận qua văn bản hoặc hình ảnh tĩnh. Việc tiếp thu kiến thức mang tính địa lí, đặc biệt là các kiến thức không gần gũi với địa phương, sẽ trở nên khô khan và trừu tượng nếu giáo viên không có phương pháp hỗ trợ sinh động. Trong khi đó, CNTT hiện nay cho phép chúng ta tiếp cận kho tư liệu số khổng lồ dưới dạng video, hình ảnh động, mô hình 3D và bản đồ số tương tác. Những công cụ này không chỉ giúp học sinh “nhìn thấy” kiến thức một cách cụ thể mà còn khơi gợi cảm xúc, kích thích trí tò mò và sự chú ý của các em trong tiết học. Đây là nền tảng quan trọng để nâng cao hiệu quả tiếp thu và tạo dựng niềm yêu thích với môn học.
Trong các tiết học Địa lí lớp 9, tôi chủ động tìm kiếm và tích hợp các video ngắn, hình ảnh động và mô hình trực quan phù hợp với nội dung bài học. Chẳng hạn, khi dạy Bài 11: Vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ, tôi sử dụng video mô phỏng từ kênh VTV7 kết hợp với bản đồ động Google Earth để giới thiệu đặc điểm địa hình và sự phân tầng nông nghiệp của vùng. Khi trình chiếu video về các bậc ruộng ở Mù Cang Chải, hệ thống thủy điện lớn trên sông Đà và các mỏ khoáng sản lớn, học sinh không chỉ hiểu sâu hơn mà còn tỏ ra bất ngờ, thích thú với vẻ đẹp địa lí của đất nước.
Song song đó, tôi sử dụng bản đồ số trực tuyến như Google Maps hoặc bản đồ tương tác do học sinh tự khám phá để minh họa sự phân bố các vùng công nghiệp, đô thị hoặc mạng lưới giao thông. Trong Bài 20: Vùng Đông Nam Bộ, học sinh được tương tác trực tiếp trên bản đồ để xác định vị trí TP. Hồ Chí Minh, các khu công nghiệp lớn, sân bay Tân Sơn Nhất, cảng Sài Gòn và so sánh với các khu vực khác trong cả nước. Các em được hướng dẫn tìm hiểu thêm bằng cách phóng to – thu nhỏ, chuyển đổi chế độ bản đồ vệ tinh – địa hình, từ đó hình thành kỹ năng đọc và phân tích không gian địa lí.
Ngoài ra, tôi còn sử dụng mô hình 3D đơn giản như bản đồ nổi, ứng dụng mô phỏng chuyển động của Trái Đất, sự phân hóa khí hậu hoặc sơ đồ cấu trúc địa hình để minh họa cho các bài có nội dung khái quát toàn quốc. Các mô hình này được lồng ghép khéo léo trong trình chiếu PowerPoint hoặc trích đoạn video ngắn, giúp học sinh tiếp cận kiến thức theo cách gần gũi, dễ hiểu và có khả năng khơi gợi trí tưởng tượng phong phú.
Việc ứng dụng video minh họa, bản đồ số và mô hình trực quan trong các tiết học Địa lí đã đem lại hiệu quả rõ rệt. Học sinh hào hứng theo dõi bài giảng, tích cực phát biểu và sẵn sàng tương tác khi giáo viên đặt câu hỏi. Các em hiểu bài nhanh hơn, ghi nhớ kiến thức lâu hơn và có khả năng phân tích mối quan hệ giữa các yếu tố địa lí tốt hơn. Đặc biệt, các bài học có sử dụng video và bản đồ động thường nhận được phản hồi tích cực từ học sinh, kể cả những em trước đây thụ động hoặc ngại học Địa lí.
Kết quả kiểm tra giữa kỳ sau khi áp dụng giải pháp cho thấy: tỉ lệ học sinh đạt điểm khá – giỏi tăng từ 47% lên 71%, đồng thời có hơn 85% học sinh trong lớp bày tỏ sự yêu thích đối với hình thức học tập có ứng dụng video và bản đồ số. Học sinh còn chủ động đề xuất được xem thêm video về các vùng địa lí khác trong tiết học sau. Điều này cho thấy giải pháp không chỉ phát huy hiệu quả nhận thức mà còn có tác dụng tích cực về mặt cảm xúc, góp phần khơi dậy sự yêu thích bền vững đối với môn học Địa lí.
Một trong những khó khăn lớn nhất khi học Địa lí là học sinh phải ghi nhớ khối lượng lớn các địa danh, số liệu, đặc điểm vùng miền, nguyên nhân và hệ quả... khiến cho tiết học dễ trở nên khô khan, đơn điệu. Đặc biệt với chương trình lớp 9, nội dung trải dài trên phạm vi cả nước, từ vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ đến Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long..., học sinh dễ rơi vào tình trạng “quá tải thông tin”. Trong bối cảnh đó, việc sử dụng trò chơi học tập và các hoạt động tương tác số sẽ là một phương pháp hiệu quả để giúp học sinh ghi nhớ kiến thức lâu hơn, củng cố nhanh sau mỗi bài học và tạo tâm thế vui vẻ, chủ động. Các trò chơi trực tuyến như Wordwall, Quizizz, Blooket, ClassPoint... không chỉ hỗ trợ luyện tập kiến thức mà còn tạo nên không khí học tập hào hứng, phát triển tư duy phản xạ, khơi dậy tinh thần thi đua tích cực trong lớp học.
Sau mỗi bài học trọng tâm hoặc chuyên đề ôn tập, tôi thiết kế các trò chơi kiến thức bằng các nền tảng số đơn giản, dễ sử dụng như Wordwall (vòng quay kỳ diệu, ghép cặp từ, trắc nghiệm chọn đáp án nhanh), Quizizz (thi trắc nghiệm có tính điểm và bảng xếp hạng), hoặc sử dụng ClassPoint tích hợp vào PowerPoint để tổ chức kiểm tra nhanh ngay trong bài giảng.
Ví dụ, sau khi dạy xong Bài 13: Vùng Bắc Trung Bộ, tôi tạo một trò chơi “Vòng quay địa lí” trên Wordwall với các câu hỏi như: “Tỉnh nào có cảng biển lớn nhất vùng?”, “Nêu một loại khoáng sản quan trọng ở Quảng Bình?”, “Nêu đặc điểm khí hậu ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp vùng này?”... Học sinh lần lượt tham gia quay vòng và trả lời, nếu đúng sẽ được điểm cộng vào bảng xếp hạng lớp.
Trong tiết ôn tập giữa kỳ, tôi dùng Quizizz để tạo một trò chơi 20 câu hỏi tổng hợp kiến thức các vùng: học sinh tham gia bằng điện thoại cá nhân, trả lời trực tiếp và thấy ngay điểm số, thứ hạng trên màn hình chiếu. Không khí lớp học trở nên sôi nổi, các em thi đua nhau giành điểm cao và tích cực ôn lại kiến thức cũ một cách tự nhiên, không áp lực.
Ngoài ra, tôi còn giao cho học sinh tự thiết kế trò chơi bằng Wordwall hoặc Google Form để thách đố bạn bè, giúp các em rèn kỹ năng công nghệ và chủ động ôn tập. Những trò chơi hay, sáng tạo được chia sẻ trong lớp, tạo nên kho dữ liệu học tập phong phú do chính học sinh xây dựng.
Việc đưa trò chơi trực tuyến vào tiết học đã tạo nên một bước chuyển rõ rệt trong thái độ học tập của học sinh. Các em tích cực hơn, chủ động tham gia, không còn ngại phát biểu hay trả lời câu hỏi. Trong các tiết học có sử dụng trò chơi, số lượng học sinh phát biểu tăng rõ rệt, thời gian ghi nhớ kiến thức được rút ngắn, và đặc biệt là sự hứng thú được duy trì đến cuối buổi học. Nhiều em còn mong muốn giáo viên tổ chức trò chơi nhiều hơn trong các bài sau.
Theo khảo sát lớp 9A sau 3 tuần áp dụng hình thức học qua trò chơi số, có đến 34/38 học sinh (gần 90%) cho rằng học Địa lí trở nên thú vị hơn, dễ nhớ hơn, và 28 em (74%) cho biết sẵn sàng tự làm trò chơi để ôn bài ở nhà. Qua kiểm tra miệng đầu giờ hoặc bài tập nhỏ sau trò chơi, kết quả cho thấy tỷ lệ trả lời đúng kiến thức trọng tâm cao hơn hẳn so với trước khi áp dụng giải pháp.
Như vậy, trò chơi số không chỉ là công cụ củng cố kiến thức hiệu quả, mà còn là “chìa khóa” để biến tiết học Địa lí thành sân chơi học thuật hấp dẫn, giúp học sinh học mà không thấy áp lực, ghi nhớ mà không cần gượng ép.
Học theo dự án là phương pháp dạy học hiện đại, giúp học sinh phát triển năng lực tự học, làm việc nhóm, tư duy phản biện và vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Với môn Địa lí lớp 9 – nơi học sinh tìm hiểu sâu về các vùng kinh tế, dân cư, tài nguyên và quá trình phát triển đất nước – thì việc tổ chức dự án học tập sẽ tạo điều kiện để các em tiếp cận kiến thức một cách toàn diện và có chiều sâu hơn. Đặc biệt, khi kết hợp với các công cụ công nghệ số như Canva, Google Slides, Padlet, PowerPoint, sơ đồ tư duy MindMeister..., việc thực hiện dự án sẽ trở nên trực quan, sáng tạo và hấp dẫn, từ đó khơi dậy hứng thú học tập và nâng cao kỹ năng số cho học sinh.
Tôi lựa chọn các nội dung bài học có tính mở, có thể triển khai thành dự án nhỏ phù hợp với năng lực của học sinh lớp 9. Ví dụ, sau khi học xong Bài 16: Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, tôi tổ chức cho học sinh thực hiện dự án mang tên “Khám phá tiềm năng phát triển du lịch ven biển miền Trung”. Lớp được chia thành các nhóm nhỏ, mỗi nhóm phụ trách tìm hiểu một tỉnh tiêu biểu như Đà Nẵng, Khánh Hòa, Bình Định, Phú Yên... Nhóm học sinh sử dụng Internet để tra cứu thông tin về vị trí địa lí, đặc điểm tự nhiên, danh lam thắng cảnh, các hình thức du lịch biển đảo, các cảng biển lớn và vai trò kinh tế của ngành du lịch đối với địa phương.
Học sinh trình bày kết quả bằng PowerPoint có lồng hình ảnh thực tế, hoặc tạo poster số trên Canva để thuyết trình. Một số nhóm còn làm video ngắn mô phỏng chuyến du lịch ảo bằng Google Earth kết hợp với lời thuyết minh. Sản phẩm được trình bày trước lớp, đánh giá theo các tiêu chí: nội dung chính xác, thẩm mỹ, sáng tạo, tính ứng dụng và khả năng thuyết trình. Các dự án được lưu trữ và chia sẻ trên Padlet của lớp, tạo nên thư viện số để cả lớp cùng tham khảo và học hỏi.
Ngoài ra, tôi cũng tổ chức các dự án nhỏ theo chủ đề xã hội gắn với thực tiễn. Trong Bài 22: Vấn đề bảo vệ môi trường và phòng chống thiên tai, học sinh thực hiện dự án “Địa phương em với công tác phòng chống bão lũ” với các hình thức trình bày là video tuyên truyền, áp phích điện tử hoặc slide hướng dẫn cộng đồng. Những sản phẩm này được trình chiếu trong tiết học để nâng cao ý thức cộng đồng và giúp học sinh thấy rõ vai trò thực tế của kiến thức địa lí.
Học theo dự án có ứng dụng CNTT đã tạo ra sự thay đổi rõ rệt trong thái độ học tập của học sinh. Các em trở nên chủ động tìm hiểu, hợp tác tích cực và có ý thức chịu trách nhiệm với sản phẩm của nhóm. Những học sinh vốn nhút nhát hoặc học yếu cũng được giao nhiệm vụ phù hợp trong nhóm như tìm kiếm hình ảnh, đọc tài liệu, thiết kế poster..., từ đó cảm thấy mình có giá trị và không bị “ra rìa”. Qua các buổi thuyết trình, kỹ năng nói trước đám đông, khả năng tổng hợp thông tin và tư duy phản biện của học sinh được cải thiện rõ rệt.
Sau đợt tổ chức 2 dự án học tập, tôi khảo sát lớp 9A thì có 33/38 học sinh (86%) cho biết rất thích học Địa lí qua dự án, vì được làm việc nhóm, được sáng tạo và tự do thể hiện ý tưởng. Đặc biệt, tỉ lệ hoàn thành bài đầy đủ và đúng hạn đạt 100%, cho thấy mức độ hứng thú và cam kết cao. Không chỉ ghi nhớ kiến thức lâu hơn, các em còn thấy rõ giá trị thực tiễn của môn học, từ đó hình thành tình yêu bền vững với Địa lí.
Trong dạy học hiện đại, không gian học tập không còn giới hạn trong lớp học vật lý, mà được mở rộng sang các nền tảng số, nơi học sinh có thể học mọi lúc, mọi nơi, tương tác đa chiều và lưu trữ sản phẩm học tập một cách sáng tạo. Đặc biệt với môn Địa lí lớp 9 – nơi nội dung gắn với vùng miền cụ thể và thực tiễn phát triển đất nước – việc thiết lập không gian học tập số sẽ giúp học sinh dễ dàng tra cứu tư liệu, kết nối kiến thức liên môn, chia sẻ sản phẩm và nhận phản hồi tích cực từ giáo viên. Song song đó, việc động viên, khích lệ kịp thời qua các công cụ số như huy hiệu điện tử, bảng vinh danh, sticker số... sẽ tiếp thêm động lực để các em học tập tích cực hơn trong môi trường số hóa hiện nay.
Tôi tạo một không gian học tập số chung cho lớp 9A trên nền tảng Padlet, đặt tên là “Khám phá Địa lí Việt Nam”. Đây là nơi lưu trữ toàn bộ bài giảng, đường link video, bản đồ tương tác, các trò chơi ôn tập, sản phẩm dự án và bài tập nhóm của học sinh. Học sinh được mời tham gia bằng email và sử dụng Padlet như một “thư viện mở”, có thể tự tải tài liệu, thuyết trình bài làm, hoặc xem bài của nhóm bạn để học hỏi. Với mỗi bài học, tôi đều cập nhật một “chuyên mục” riêng, ví dụ: Bài 18 – Vùng Tây Nguyên: chia sẻ video du lịch Đà Lạt, bài thuyết trình nhóm, sơ đồ Mindmap về thủy điện và cây công nghiệp lâu năm, kèm theo hình ảnh minh họa thực tế.
Để tăng tính cá nhân hóa và động viên kịp thời, tôi sử dụng ClassDojo để theo dõi tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập và tuyên dương học sinh qua huy hiệu điện tử. Mỗi khi một học sinh hoàn thành bài sớm, trình bày sáng tạo, hoặc hỗ trợ nhóm tốt, tôi sẽ tặng “huy hiệu số” tương ứng như: “Người truyền cảm hứng”, “Thuyết trình xuất sắc”, “Nhà khám phá địa lí”, và công bố trên bảng vinh danh số trong lớp. Ngoài ra, các sản phẩm đẹp cũng được đăng lên Google Sites lớp học, nơi phụ huynh có thể cùng theo dõi, từ đó tạo thêm sự kết nối và ghi nhận giữa nhà trường – giáo viên – học sinh – gia đình.
Khi tổ chức tiết học ôn tập cuối học kỳ, tôi chia lớp thành các nhóm thi đấu trên nền tảng ClassPoint, tạo bảng xếp hạng theo thời gian thực, giúp các em vừa luyện tập, vừa có cảm giác được “lên bảng vàng”. Những học sinh thường ít nổi bật trong lớp cũng được chú ý nếu có sự tiến bộ, qua đó tạo sự công bằng và khích lệ động lực học tập cho tất cả.
Không gian học tập số và hệ thống khích lệ qua CNTT đã làm thay đổi rõ rệt thói quen học tập của học sinh. Các em trở nên chủ động hơn trong việc tìm kiếm tài liệu, trao đổi bài và chuẩn bị bài mới. Nhiều em từng ít phát biểu trong lớp nay lại hăng hái thể hiện ở “không gian số” qua bài đăng, bình luận tích cực, hoặc thuyết trình video do nhóm thực hiện. Việc tuyên dương kịp thời và công khai bằng hình thức số đã giúp các em thấy được nỗ lực của mình được ghi nhận, tạo động lực để phấn đấu nhiều hơn trong những bài học tiếp theo.
Kết quả khảo sát sau 1 học kỳ cho thấy: 87% học sinh cảm thấy việc học Địa lí trở nên thú vị hơn nhờ có không gian số, trong đó 92% học sinh đánh giá cao hiệu ứng tích cực từ các hình thức động viên như huy hiệu, bảng vinh danh và phản hồi online. Đặc biệt, học sinh đã hình thành thói quen truy cập thư viện số Padlet hàng tuần như một phần trong nề nếp học tập, giúp tiết kiệm thời gian, tăng cường tính tự học và gắn bó với môn học hơn.
Sau thời gian triển khai đồng bộ các giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học Địa lí lớp 9, tôi nhận thấy sự chuyển biến rõ rệt từ phía học sinh cả về thái độ học tập lẫn kết quả tiếp thu kiến thức. Các tiết học có sử dụng video minh họa, bản đồ số, trò chơi tương tác hoặc dự án học tập đều diễn ra sôi nổi, thu hút sự tham gia tích cực của học sinh. Không khí lớp học trở nên cởi mở, thân thiện, học sinh không còn e dè khi phát biểu, mà tự tin hơn trong việc trình bày suy nghĩ, chia sẻ hiểu biết và phản hồi bạn bè. Đặc biệt, các em đã dần hình thành được kỹ năng học tập số: biết tra cứu thông tin chính xác, sử dụng phần mềm thuyết trình, thiết kế sản phẩm trực tuyến và lưu trữ bài làm khoa học.
Kết quả kiểm tra định kỳ và giữa kỳ cũng cho thấy sự tiến bộ rõ nét: tỷ lệ học sinh đạt điểm khá, giỏi tăng lên đáng kể; trong đó có những em trước đây học yếu đã có sự cải thiện rõ rệt nhờ được khơi gợi hứng thú và hỗ trợ bằng các công cụ phù hợp. Cụ thể, ở lớp 9A, tỷ lệ học sinh đạt điểm trên trung bình môn Địa lí từ 84% đã tăng lên 97%, trong đó có 70% đạt từ khá trở lên. Ngoài ra, qua khảo sát nội bộ cuối học kỳ, phần lớn học sinh đều bày tỏ mong muốn tiếp tục được học Địa lí thông qua video, bản đồ động, trò chơi học tập và hoạt động nhóm có sử dụng công nghệ. Đặc biệt, các sản phẩm học tập số do học sinh thực hiện như bài trình chiếu, video thuyết trình, sơ đồ tư duy… đã trở thành nguồn tư liệu học tập hữu ích cho cả lớp, góp phần lan tỏa tinh thần hợp tác và học tập sáng tạo.
Với giáo viên, việc áp dụng công nghệ vào giảng dạy không chỉ mang đến hiệu quả rõ ràng trong từng tiết học, mà còn giúp tôi nâng cao năng lực thiết kế bài giảng tích hợp, lựa chọn công cụ số phù hợp và linh hoạt điều tiết hoạt động học của học sinh theo hướng phát triển năng lực. Qua mỗi tiết học, tôi nhận ra vai trò ngày càng quan trọng của công nghệ thông tin trong việc khơi dậy cảm hứng và nâng cao chất lượng dạy học môn Địa lí, từ đó thêm tin tưởng vào hành trình đổi mới giáo dục đang diễn ra từng ngày trong nhà trường.
Trong quá trình triển khai sáng kiến, tôi đã rút ra nhiều bài học quý giá không chỉ cho riêng bản thân mà còn có thể chia sẻ cùng đồng nghiệp trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực học sinh. Trước hết, để ứng dụng công nghệ thông tin một cách hiệu quả trong dạy học Địa lí, giáo viên cần xác định rõ mục tiêu bài học và lựa chọn công cụ số phù hợp với nội dung và đối tượng học sinh. Việc sử dụng CNTT không đơn thuần là trình chiếu đẹp hay tạo hiệu ứng hấp dẫn, mà cần được đặt trong một hệ thống hoạt động sư phạm có định hướng rõ ràng, có điểm nhấn, có sự gắn kết với năng lực cần hình thành cho học sinh.
Bài học thứ hai là phải linh hoạt và sáng tạo trong tổ chức tiết học. Công nghệ chỉ là phương tiện hỗ trợ, còn người giáo viên vẫn giữ vai trò dẫn dắt và điều phối nhịp nhàng các hoạt động học để tạo sự tương tác thật sự giữa thầy và trò, giữa trò với trò. Việc khuyến khích học sinh được làm, được trải nghiệm, được tự thiết kế sản phẩm học tập bằng các công cụ số đã góp phần nâng cao trách nhiệm, khơi dậy tiềm năng sáng tạo và làm cho tiết học trở nên sinh động, gần gũi hơn với thực tiễn cuộc sống.
Bên cạnh đó, sự chuẩn bị kỹ lưỡng trước khi lên lớp là yếu tố then chốt để đảm bảo thành công. Mỗi video, mỗi trò chơi, mỗi bản đồ số được đưa vào tiết học đều cần được kiểm tra, chỉnh sửa, dự báo phản ứng của học sinh để kịp thời xử lý tình huống. Việc tạo môi trường học tập số cũng đòi hỏi giáo viên phải kiên trì hướng dẫn, xây dựng thói quen học tập mới cho học sinh, đặc biệt là những em còn chưa có điều kiện hoặc kỹ năng sử dụng công nghệ thành thạo.
Cuối cùng, tôi nhận thấy sự thay đổi không chỉ đến từ phía học sinh mà còn xuất phát từ sự chủ động và tinh thần cầu thị của người giáo viên. Khi chính giáo viên thay đổi cách tiếp cận, dám thử nghiệm và sẵn sàng đồng hành với học sinh trong thế giới số, thì mỗi tiết học Địa lí đều có thể trở thành một hành trình khám phá đầy hấp dẫn và giá trị. Đó cũng chính là thông điệp tích cực mà tôi rút ra trong suốt quá trình thực hiện đề tài này.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học Địa lí lớp 9 không chỉ là xu thế tất yếu trong bối cảnh chuyển đổi số giáo dục, mà còn là một giải pháp thiết thực góp phần nâng cao chất lượng dạy học và nuôi dưỡng niềm yêu thích môn học ở học sinh. Đề tài mang ý nghĩa thực tiễn rõ rệt, khi giúp học sinh thay đổi cách tiếp cận tri thức từ thụ động sang chủ động, từ ghi nhớ sang khám phá và từ ngại học sang hào hứng học. Thông qua các hoạt động học tập gắn với công nghệ, học sinh được phát triển đồng thời cả năng lực địa lí và năng lực công nghệ – hai yếu tố quan trọng của công dân trong thế kỷ 21.
Trong khuôn khổ sáng kiến, tôi đã triển khai đồng bộ bốn giải pháp trọng tâm: sử dụng video minh họa, bản đồ số và mô hình 3D để làm rõ kiến thức; thiết kế trò chơi trực tuyến nhằm củng cố và kiểm tra kiến thức theo hướng hấp dẫn; tổ chức học theo dự án có ứng dụng công cụ số để phát triển tư duy, kỹ năng; và xây dựng không gian học tập số kết hợp tuyên dương học sinh qua các nền tảng công nghệ. Các giải pháp được thực hiện gắn liền với nội dung sách giáo khoa Địa lí 9 – bộ “Kết nối tri thức với cuộc sống”, có sự điều chỉnh phù hợp với điều kiện thực tế của lớp học và đặc điểm tâm lý lứa tuổi. Kết quả thực nghiệm cho thấy hiệu quả rõ rệt cả về mức độ hứng thú, khả năng tiếp thu kiến thức và tinh thần học tập tích cực của học sinh.
Tôi tin rằng, khi giáo viên chủ động đổi mới phương pháp, linh hoạt ứng dụng công nghệ và thấu hiểu học sinh, thì bất cứ môn học nào – dù trước đây bị xem là “khó” hay “phụ” – cũng có thể trở thành một môn học được các em yêu thích và mong chờ. Với tinh thần đó, tôi hy vọng rằng sáng kiến này sẽ góp phần nhỏ bé vào hành trình đổi mới giáo dục đang từng bước diễn ra trong mỗi lớp học thân quen. Rất mong nhận được sự góp ý từ đồng nghiệp để đề tài ngày càng hoàn thiện và có giá trị áp dụng rộng rãi hơn trong thực tiễn.
Để việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học đạt hiệu quả cao, nhà trường cần tiếp tục đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy như đường truyền Internet ổn định, hệ thống máy chiếu, thiết bị tương tác, bảng thông minh... Đồng thời, nên xây dựng kho học liệu số nội bộ, tạo điều kiện cho giáo viên chia sẻ và khai thác nguồn tư liệu chất lượng, cập nhật thường xuyên. Bên cạnh đó, nhà trường cần khuyến khích và hỗ trợ giáo viên tham gia các lớp tập huấn chuyên sâu về công nghệ, kỹ năng thiết kế bài giảng số, kỹ năng tổ chức lớp học trực tuyến hoặc các hoạt động trải nghiệm qua nền tảng số, góp phần nâng cao năng lực chuyển đổi số trong giảng dạy. Ngoài ra, nhà trường nên tạo cơ hội để các tổ chuyên môn trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm triển khai các mô hình dạy học ứng dụng CNTT hiệu quả, từ đó nhân rộng những cách làm hay trong toàn đơn vị.
Phụ huynh cần có nhận thức tích cực hơn về vai trò của môn Địa lí nói riêng và các môn khoa học xã hội nói chung trong chương trình học của con em mình. Việc học Địa lí không chỉ để thi mà còn trang bị kiến thức sống hữu ích, hình thành kỹ năng phân tích và tư duy địa lí, góp phần giáo dục ý thức công dân. Vì vậy, phụ huynh nên tạo điều kiện để học sinh có thể sử dụng các thiết bị công nghệ phục vụ cho việc học tập: hỗ trợ kết nối Internet, hướng dẫn con cách sử dụng các phần mềm học trực tuyến một cách an toàn, đồng thời động viên con tham gia tích cực vào các hoạt động học tập có ứng dụng công nghệ. Sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường sẽ là nền tảng vững chắc để học sinh phát triển toàn diện, yêu thích việc học và từng bước làm chủ tri thức trong thời đại số.
Bấm vào đây tham khảo thêm những sáng kiến lớp 9 mới nhất
Đây là Sáng kiến mới 100%, do thầy Lê Hồng Minh thiết kế nhằm hỗ trợ miễn phí cho giáo viên phục vụ công việc dạy học và được đăng tải độc quyền trên website bienphap.vn
Thầy nghiêm cấm tất cả mọi người không được phép chia sẻ lại hoặc buôn bán trên tất cả các trang mạng xã hội dưới bất cứ hình thức nào!
Vận dụng chuyển đổi số để tổ chức dạy Ngữ văn lớp 9 giúp học sinh phát triển năng lực ngôn ngữ.
29/07/2025 19:01
Vận dụng chuyển đổi số để tổ chức dạy Ngữ văn lớp 9 giúp học sinh phát triển năng lực ngôn ngữ là một sáng kiến do thày Lê Hòng Minh thiết kế mới, được đăng tải độc quyền lên website bienphap.vn nhằm hỗ trợ miễn phí cho thầy cô thực hiện tốt nhiệm vụ hày học của mình.